Nguyễn Tất Thành và con đường cứu nước

TCCS – Ngày 5-6-1911, tại bến cảng Nhà Rồng, có một người thanh niên Việt Nam yêu nước đã lên tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước trên thế giới để về giúp đỡ đồng bào mình. Đây là dấu mốc quan trọng đánh dấu hành trình trên con đường cứu nước của Văn Ba – Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Con đường đó thể hiện sự tiếp nối ý chí của cha anh, nhưng đầy sáng tạo, để rồi cuối cùng Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.

Trước Nguyễn Tất Thành, đã có nhiều người Việt Nam trăn trở ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc. Tiêu biểu trong số đó có hai trí thức nổi tiếng là Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Đều là những nhà yêu nước nhiệt thành, nhưng Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh đã đi hai con đường khác nhau, song cùng mong muốn Nguyễn Ái Quốc đi theo con đường của mình. Thế nhưng, Nguyễn Ái Quốc đã chọn cho mình một con đường đi riêng, mặc dù rất kính trọng hai bậc tiền bối.

Năm 1923, khi gặp nhà thơ Nga nổi tiếng O.E. Mandelstam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho biết: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe 3 chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”(1). Khi trả lời một nhà văn người Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”(2). Mang trong mình dòng máu yêu nước của dân tộc, của cha ông, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở đây con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.

Bến Nhà Rồng đầu thế kỷ XX. Từ nơi này, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc trên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville để thực hiện hoài bão giải phóng nước nhà khỏi ách nô lệ của thực dân, đế quốc

Nguyễn Tất Thành không những sinh ra và lớn lên trong một gia đình trí thức, mà còn sinh ra trong một gia đình là mệnh quan của triều đình. Với xuất thân ấy, bằng tài trí thông minh của mình, nếu mưu cầu lợi ích cá nhân thì đối với Người không phải là điều khó khăn. Thế nhưng, bởi lòng yêu nước, thương dân, Nguyễn Tất Thành đã quyết chí ra đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc mình với mong muốn: “Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”(3).

Đánh giá về quyết định đi sang phương Tây của Nguyễn Tất Thành, GS. Trần Văn Giàu đã viết: “Định hướng cho cách mạng là vấn đề trọng đại nhất đầu thế kỷ XX. Đi ngả nào mới tới đích? Đường cứu nước là đường nào? Trong khi các chí sĩ lớn tuổi đi tìm ở phương Đông (Nhật) rồi tới hướng Bắc (Trung Quốc) thì thanh niên Nguyễn Tất Thành đi sang châu Âu (năm 1911). Tìm cách đánh đuổi thực dân Tây phương mà đi về hướng Tây. Đi ngược chăng? Chưa một ai ngờ rằng đi ngược mà sẽ về xuôi. Không vào hang hổ sao trói được hổ”(4).

Ngày 18-6-1919, thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, bao gồm những nhân vật chủ chốt là cụ Phan Chu Trinh, cụ Phan Văn Trường, Nguyễn Tất Thành đã ký tên gửi tới Hội nghị Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam bằng tên Nguyễn Ái Quốc. Mặc dù rất khâm phục các bậc sĩ phu dũng cảm tìm đường đấu tranh cứu dân, cứu nước, nhưng người thanh niên Nguyễn Tất Thành cũng sớm nhận ra những hạn chế trong con đường của những người đi trước. Người cho rằng, cụ Phan Chu Trinh yêu cầu thực dân Pháp thực hiện cải lương, việc này “chẳng khác nào xin giặc rủ lòng thương”(5). Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp ta đuổi Pháp cũng chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”(6). Cụ Hoàng Hoa Thám thực tế hơn, đã trực tiếp đấu tranh chống Pháp, “nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến”(7).

Có một điều đặc biệt, sau này cả hai cụ Phan đều đặt hoàn toàn niềm hy vọng vào người thanh niên Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc. Trong thư gửi Nguyễn Ái Quốc năm 1922, cụ Phan Châu Trinh than thở mình đã già, hết thời và chỉ trông cậy vào Nguyễn Ái Quốc. Cụ Phan Châu Trinh cũng sốt ruột và thúc giục Nguyễn Ái Quốc phải về trong nước để “mưu đồ đại sự”: “Anh Nguyễn, tôi tưởng tâm với anh đã rõ nguồn cơn, bây giờ thân tôi tợ (tựa) chim lồng cá chậu, vả lại cây già thì gió dễ lay, người già thì trí lẫn, cảnh tôi như hoa sắp tàn, hiềm vì quốc phá gia phong mà hơi tàn cũng phải gào cho hả dạ, may ra có tỉnh giấc hôn mê. Còn anh, như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông, nhưng mà anh chẳng nghe lời tôi, anh cứ quanh quẩn bên này thời làm sao mà tài năng anh thi thố được? Bởi vậy, tôi thành tâm mong mỏi anh thay đổi cái phương pháp cũ kỹ kia đi, để mà mưu đồ đại sự, tôi cầu chúc anh thành công và hy vọng bọn mình cùng thấy mặt nhau ở quê hương xứ sở”(8). Còn cụ Phan Bội Châu, trong thư gửi “Người cháu rất kính yêu của Bác” là Lý Thụy (tức Nguyễn Ái Quốc) ngày 14-2-1925 đã viết: “Phan Bội Châu này đâu có ngờ rằng sau này cháu sẽ trở thành một tiểu anh hùng như thế này. Bây giờ đem kẻ già này so với cháu thì bác thấy bác rất xấu hổ… Việc thừa kế nay đã có người, người đi sau giỏi hơn kẻ đi trước, trên tiền đồ đen tối sẽ xuất hiện ánh sáng ban mai. Ngày xế đường cùng, chỉ sợ không được thấy ngày đó… Việc gây dựng lại giang sơn, ngoài cháu có ai để nhờ ủy thác gánh vác trách nhiệm thay mình. Có được niềm an ủi lớn lao như thế, làm sao bác không cảm thấy vui mừng được?”(9).

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917) đã thức tỉnh các dân tộc thuộc địa trên thế giới, thức tỉnh những người nô lệ trên khắp năm châu. Từ sự cổ vũ và thôi thúc của Cách mạng Tháng Mười Nga, Quốc tế Cộng sản – Quốc tế III do V.I. Lê-nin sáng lập ra đời. Một trong những sự kiện quyết định đến sự lựa chọn dứt khoát con đường của cách mạng Việt Nam là khi Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc với “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lê-nin đăng trên báo Nhân đạo (tháng 7-1920). Luận cương của V.I. Lê-nin đã cho Nguyễn Ái Quốc thấy rõ con đường giành độc lập dân tộc cho đất nước và tự do cho đồng bào. Người khẳng định: “Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”! Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế thứ ba”(10). Trong bài viết “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho biết thêm rằng: “Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lê-nin vì Lê-nin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình; trước đó, tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của Lê-nin viết… Còn như đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì thì tôi chưa hiểu… Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(11).

Năm 1920, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours với tư cách đại biểu Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và cũng là người cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam_Ảnh: Tư liệu

Tin theo V.I. Lê-nin, đi theo con đường của V.I. Lê-nin vĩ đại, tại Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp (Đại hội Tua, tháng 12-1920), tham dự với tư cách đại biểu chính thức và được mời phát biểu, Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo những sự thật tàn bạo mà thực dân Pháp đã thi hành ở Đông Dương. Người kêu gọi Đảng Xã hội Pháp hãy hành động để ủng hộ các dân tộc bị áp bức, trong đó có nhân dân Đông Dương: “Đảng Xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức… Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa… Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi!”(12). Cũng tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã tán thành việc Đảng gia nhập Quốc tế Cộng sản. Người cũng đã cùng với những thành viên gia nhập Quốc tế III tuyên bố thành lập phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản, là một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Các sự kiện trên đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế.

Với hành trình ra đi tìm đường cứu nước ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh không chỉ tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc mình, không chỉ có công lao to lớn đối với dân tộc Việt Nam, mà còn có công lao to lớn đối với các dân tộc thuộc địa trên thế giới, đối với phong trào cách mạng vô sản nói chung, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới và châu Á nói riêng. Vì vậy, hành trình ra đi tìm đường cứu nước ngày 5-6-1911 của Bác là một hành trình đặc biệt:

Một là, trước Nguyễn Tất Thành, đã có nhiều sĩ phu Việt Nam đến các quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản,… đi tìm đường cứu nước. Thế nhưng, dù đi đến quốc gia nào, theo đường hướng nào thì tất cả các bậc sĩ phu đáng kính ấy đều không thành công và không tìm được con đường giúp cho đất nước Việt Nam thoát ra khỏi khủng hoảng về đường lối khi đó. Nguyễn Tất Thành đi sang phương Tây, sang nước Pháp tìm đường cứu nước, quốc gia đang đô hộ Việt Nam lúc đó và tại nơi này, bằng sự mẫn cảm và trí tuệ thiên tài, Người đã bắt gặp “cẩm nang thần kỳ” – chủ nghĩa Mác – Lê-nin, lấy đó làm kim chỉ nam cho cuộc đời hoạt động cách mạng của mình.

Hai là, kể từ tiếng súng xâm lược đầu tiên của thực dân Pháp bắn vào cửa biển Đà Nẵng, ngày 31-8-1858, đã có rất nhiều các cuộc khởi nghĩa chống xâm lược nổ ra ở hầu hết mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, các phong trào yêu nước chủ yếu diễn ra lẻ tẻ, độc lập, không có sự liên kết và thống nhất với nhau. Mỗi phong trào diễn ra trong phạm vi hẹp và khép kín như vậy đã làm cho kẻ thù dễ dàng phân hóa và đàn áp, dẫn đến thất bại. Đặc biệt, các phong trào yêu nước thời đó chưa có sự ủng hộ, liên kết với các phong trào giải phóng dân tộc ở các nước khác trên thế giới. Bằng việc ra đi tìm đường cứu nước, bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp,… Nguyễn Ái Quốc đã kết nối phong trào cách mạng Việt Nam với thế giới, đưa phong trào cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, tìm sự ủng hộ của quốc tế đối với cách mạng Việt Nam.

Ba là, bằng việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và văn hóa Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên gắn chặt độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Bằng “cẩm nang thần kỳ” – chủ nghĩa Mác – Lê-nin mà Nguyễn Ái Quốc tìm ra và sau đó được truyền bá vào Việt Nam – con đường cứu nước, đấu tranh giành độc lập, thống nhất Tổ quốc của Việt Nam bước sang trang sử mới.

Bốn là, ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập và chỉ 15 năm sau, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vùng lên giành chính quyền trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cũng chính bằng tư duy sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng, phát triển một cách sáng tạo phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử Việt Nam. 110 năm sau ngày Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, hơn 100 năm sau ngày Nguyễn Ái Quốc bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lê-nin, hơn 90 năm Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, những giá trị về vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam vẫn mang ý nghĩa thời đại sâu sắc. Tư duy sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng, phát triển và phát huy, như Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(13).

Với việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới, Đảng ta đã tiến hành công cuộc đổi mới đồng bộ, toàn diện, đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, mở ra trang mới trong lịch sử phát triển đất nước (Trong ảnh: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cho cá ăn tại Ao cá Bác Hồ trong khuôn viên Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh) _Ảnh: TTXVN

Năm là, từ cuộc khởi đầu lịch sử ấy, đã có một Đảng Cộng sản Việt Nam hôm nay, một đất nước Việt Nam “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(14). Hiện, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Việt Nam đã 2 lần được bầu vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc với số phiếu rất cao. Việt Nam cũng đã tham gia hầu hết các diễn đàn lớn của thế giới, ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với các nền kinh tế lớn. Năm 2020, Việt Nam đã chính thức vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 ở Đông Nam Á, đứng thứ 37 trên thế giới và được đánh giá là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Đảng Cộng sản Việt Nam đã có quan hệ với hàng trăm chính đảng tại hàng trăm quốc gia, trong đó có nhiều đảng cầm quyền và tham chính. Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng đã nhận được 368 thư, điện mừng từ các chính đảng, các nhà lãnh đạo trên thế giới. Những thành tựu trên khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”(15). Những thành tựu ấy cũng khẳng định: “Với định hướng đúng đắn, khát vọng phát triển mạnh mẽ và quyết tâm chính trị cao, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhất định sẽ đạt được những thành tựu phát triển mới vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta”(16)./.

TS. VŨ TRUNG KIÊN
Học viện Chính trị khu vực 2

————————

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 461

(2), (3) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t. 1, tr. 30

(4) Trần Văn Giàu: Hồ Chí Minh – Chân dung một tâm hồn và trí tuệ vĩ đại, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2014, tr. 21

(5), (6), (7) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Trẻ, 2007, tr. 13, 14

(8), (9) Phan Văn Hoàng: Hồ Chí Minh – Chân dung và di sản, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2018, tr. 18 – 19, 20

(10), (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 562, 561 – 563

(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 35

(13), (14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 324, 322

(15), (16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 26, 11