GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO TÀNG

Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của con người ngày càng phong phú, đa dạng. Trong cuộc sống hiện đại, nhu cầu trở về cội nguồn, tìm hiểu lịch sử dân tộc và giới thiệu bản sắc văn hóa địa phương càng trở nên bức thiết. Có nhiều đối tượng khác nhau để tiếp cận với lịch sử dân tộc, trong đó bản sắc văn hóa địa phương là đối tượng được con người quan tâm nhất, bởi chúng chính là những bằng chứng xác thực và cụ thể nhất về đặc điểm văn hóa của một địa phương, một dân tộc. Ở đó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp, kỹ năng, kỹ xảo và trí tuệ của con người. Bản sắc văn hóa địa phương chính là những thông điệp về lịch sử, văn hóa mà thế hệ trước trao truyền lại cho thế hệ sau, từ đó cảm nhận được quá khứ, tìm đến với truyền thống lịch sử, những giá trị đạo đức, thẩm mỹ, tín ngưỡng, tâm linh. Trên cơ sở đó, các thế hệ đi sau tiếp nối và sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới.

Di sản văn hóa vật thể và phi vật thể là hai thành tố quan trọng, có mối quan hệ tương hỗ và gắn bó hữu cơ trong mỗi nền văn hóa. Vì thế, sự phân loại di sản văn hóa vật thể và phi vật thể dù sao cũng chỉ mang tính chất tương đối như là một thứ công cụ phục vụ nghiên cứu khoa học và quản lý nhà nước. Về bản chất, mọi đối tượng để được xác nhận là di sản văn hóa vật thể hay phi vật thể đều cần có một tiêu chí chung là nó phải hàm chứa những giá trị tiêu biểu về các mặt: lịch sử, văn hóa và khoa học. Và do đó, suy cho cùng thì một vật thể cụ thể cũng chỉ là dạng biểu hiện vật chất của các mặt giá trị văn hóa. Nếu không hàm chứa những mặt giá trị phi vật thể thì đối tượng đó chỉ còn tồn tại như một loại vật dụng thông thường. Ngoài ra, cũng phải thấy di sản văn hóa phi vật thể còn có một dạng biểu hiện rất đặc thù nữa, đó là những không gian văn hóa xác định, gắn bó với một cộng đồng cư dân cụ thể và đại diện cho cộng đồng là những cá nhân tài năng nắm giữ được những tri thức, kỹ năng, bí quyết, mà chỉ thông qua họ, các giá trị văn hóa phi vật thể mới được bảo lưu, truyền dạy và thể hiện một cách hoàn mỹ, sinh động nhất. Vì thế, di sản văn hóa phi vật thể là thành tố rất nhạy cảm, dễ bị biến dạng dưới tác động của các quá trình phát triển lịch sử và giao lưu văn hóa. Và, cũng vì thế, mà việc bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể đang trở thành một vấn đề cấp thiết của toàn nhân loại. Tính thống nhất trong sự đa dạng là nét đặc thù trong kho tàng di sản văn hóa của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam.

Tính thống nhật trong sự đa dạng đó đòi hỏi chúng ta phải có thái độ ứng xử thích hợp là: ghi nhận, củng cố và tôn vinh những nét tương đồng văn hóa của 54 dân tộc anh em, đồng thời chấp nhận, tôn trọng sự khác biệt về bản sắc văn hóa của từng dân tộc trong cộng đồng dân tộc quốc gia. Muốn như thế, chúng ta phải huy động mọi nỗ lực cần thiết nhằm bảo vệ, tôn vinh nét văn hóa độc đáo và ngăn chặn nguy cơ làm lu mờ dần bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao thoa văn hóa trong cộng đồng quốc gia nói riêng và trong quá trình toàn cầu hóa nói chung. Và, cũng như thế, yếu tố văn hóa quốc gia và yếu tố văn hóa địa phương cần được đặt trong mối quan hệ biện chứng. Trong lĩnh vực văn hóa nói chung và di sản văn hóa nói riêng, không có chỗ cho khái niệm “nền văn hóa cao cấp” và “nền văn hóa thứ cấp”. Một dân tộc dù nhỏ bé, số dân không đông, nền kinh tế có thể còn lạc hậu, nhưng hoàn toàn có khả năng đóng góp xứng đáng vào kho tàng di sản văn hóa của cả cộng đồng dân tộc.

Chúng ta hay có thói quen nhìn nhận, đánh giá di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Việt Nam trên cơ sở các tiêu chí khoa học được du nhập từ bên ngoài mà không lưu ý thỏa đáng tới những tiêu chí mang tính bản địa và sắc thái địa phương và do đó, đôi khi còn mắc sai lầm khi tiếp cận cái bản chất xác thực trong di sản văn hóa dân tộc. Chỉ có thể thực sự tôn trọng các giá trị văn hóa của dân tộc khác, cởi mở trong giao lưu văn hóa trên cơ sở nền tảng một ý thức tự tôn và tự hào về di sản văn hóa của dân tộc mình. Trong lĩnh vực bảo tàng, chúng ta cũng thấy những khuynh hướng sai lệch về cách nhìn nhận giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong các bộ sưu tập hiện vật gốc và các hình thức hoạt động của bảo tàng.

Thứ nhất, chúng ta mới tập trung nỗ lực vào việc nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản và giới thiệu các bộ sưu tập hiện vật gốc – là dạng biểu hiện vật chất của các giá trị văn hóa phi vật thể (đành rằng điều đó cũng là cần thiết, vì nếu thiếu dạng biểu hiện vật chất thì giá trị văn hóa phi vật thể cũng không còn tồn tại) mà chưa chú ý tới việc xác định, làm rõ lượng thông tin khoa học, các giá trị văn hóa phi vật thể hàm chứa trong các hiện vật gốc đó.

Thứ hai, các bảo tàng chưa tập trung khai thác khả năng phong phú của loại tài liệu hiện vật độc đáo là hồi ký, lời kể của các nhân chứng lịch sử, các nghệ nhân dân gian thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau cũng như của các chủ hiện vật – do chúng ta chưa nhận thức rõ những người đó chính là dạng biểu hiện “vật chất sống” của các giá trị văn hóa phi vật thể của bảo tàng. Nếu thực sự tôn trọng những thông tin mà họ cung cấp thì chúng ta đã có thể sớm vật chất hóa nó qua các bản ghi chép, hồi ký, ảnh chụp, băng hình, đĩa hình… Ở chừng mực nào đó, cũng nên coi đây là một loại “hiện vật gốc” đặc thù của bảo tàng. Thực tế đã chứng minh, loại “hiện vật gốc” đặc thù này có khả năng tạo ra sức hấp dẫn lớn cho đông đảo công chúng bảo tàng mà chúng ta chưa có biện pháp tập hợp, bảo quản và phát huy.

Với quan niệm “Bảo tàng là một phương tiện trao đổi văn hóa, làm giàu thêm các nền văn hóa và phát triển sự hiểu biết lẫn nhau, sự hợp tác và hòa bình giữa các dân tộc”, ngoài kho bảo quản các bộ sưu tập hiện vật gốc (gồm các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể) và phần trưng bày dựa trên cơ sở các bộ sưu tập hiện vật gốc, bảo tàng còn có một không gian văn hóa thích hợp nhất để tổ chức các hình thức sinh hoạt văn hóa góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò và giá trị di sản văn hóa phi vật thể, tạo điều kiện cho các nghệ nhân – những đại diện ưu tú của các cộng đồng cư dân trong cả nước có điều kiện trình diễn, thể hiện tài năng và giới thiệu những giá trị văn hóa phi vật thể tiêu biểu của dân tộc mình.

Như chúng ta đã biết, điều kiện tiên quyết bảo đảm sự tồn tại lâu dài và chuyển giao di sản văn hóa phi vật thể từ thế hệ này sang thế hệ khác là nó phải được gắn với đời sống đương đại sinh động của một cộng đồng cư dân nhất định, chứ không phải “hóa thạch” trong kho của bảo tàng. Nói như vậy có nghĩa là di sản văn hóa phi vật thể phải tồn tại ngay trong không gian văn hóa nơi cộng đồng cư dân đã sáng tạo ra nó và tiếp tục cung cấp nguồn sinh khí cho nó tồn tại mãi mãi. Các sinh hoạt văn hóa do bảo tàng tổ chức ít nhất cũng có những mặt đóng góp quan trọng sau đây:

Thứ nhất, tạo ra cú hích tinh thần nhằm nâng cao ý thức cộng đồng cư dân về việc họ chính là chủ nhân sáng tạo, hưởng thụ và bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.

Thứ hai, thông qua các sinh hoạt văn hóa tổ chức tại bảo tàng, chúng ta có điều kiện hướng dẫn cho đại diện ưu tú của các cộng đồng cư dân nơi có di sản văn hóa phi vật thể những cách thức, biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của chính bản thân họ và cho cộng đồng của họ. Đây cũng chính là hình thức tập huấn thiết thực nhất và dễ tiếp thu nhất.

Thứ ba, đây cũng là những dịp bảo tàng quảng bá và giới thiệu giá trị di sản văn hóa phi vật thể cho rộng rãi các đối tượng công chúng trong toàn xã hội.

Thật đáng tiếc là từ trước đến nay, các bảo tàng chưa biết phát huy các thế mạnh vốn có của mình trên cơ sở các hiện vật đang được lưu giữ. Ngoài việc đổi mới về nhận thức, chúng ta cũng cần nhanh chóng đa dạng hóa các mặt hoạt động của bảo tàng nhằm mục tiêu lớn nhất là hướng tới cộng đồng, đáp ứng nhu cầu của nhiều tầng lớp cư dân, khuyến khích các chủ thể văn hóa trực tiếp tham gia vào các hoạt động của bảo tàng, tạo điều kiện cho họ tự trình bày, tự thể hiện khả năng sáng tạo của mình. Đó là biện pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.

– Thứ nhất, đa dạng hóa các loại hình bảo tàng, đặc biệt là loại hình “bảo tàng sống” ngay tại cộng đồng – nơi có các di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu.

– Thứ hai, xây dựng các chương trình giáo dục của bảo tàng mang tính sư phạm và chuyên nghiệp cao để giúp cho khách tham quan tự khám phá ra khả năng của mình, khám phá ra những tri thức mới khi tiếp cận với các di sản văn hóa phi vật thể trong bảo tàng.

– Thứ ba, xây dựng chiến lược tiếp thị để thu hút đông đảo công chúng đến với bảo tàng.

Cuối cùng, chúng ta cần luôn tâm niệm một điều rằng “bảo tàng là một thiết chế phi lợi nhuận nhằm phục vụ lợi ích của cộng đồng”, nghĩa là hoạt động của bảo tàng có thể đem lại lợi ích kinh tế, tạo nguồn thu để nâng cao chất lượng hoạt động phục vụ khách tham quan chứ không được thu lợi nhuận bằng mọi giá. Các bảo tàng tỉnh (thành phố) không chỉ cần quan tâm tới việc giữ gìn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa phi vật thể thông qua các hoạt động của một thiết chế bảo tàng, mà còn phải quan tâm tới việc giữ gìn và phát huy giá trị của di sản văn hóa phi vật thể tại các di tích lịch sử – văn hóa và danh lam thắng cảnh có trên địa bàn. Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho các bảo tàng quá tĩnh lặng và kém hấp dẫn đối với khách tham quan đó là chưa phát huy hết được giá trị di sản văn hóa phi vật thể ngay tại trưng bày của bảo tàng.

Vì vậy, đẩy mạnh các hoạt động giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ngay tại bảo tàng chính là việc làm cần thiết và đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của bảo tàng và thu hút khách tham quan đến với trưng bày của bảo tàng. Bởi vì, các hoạt động này một mặt giúp cho các thông tin vốn tiềm ẩn trong các tài liệu, hiện vật được truyền đạt tới khách tham quan, mặt khác còn giới thiệu được một cách sinh động cuộc sống vốn muôn màu của chủ nhân các hiện vật ấy. Nhờ đó, mà tạo nên sự sống động và hấp dẫn cho bảo tàng, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, phổ biến tri thức của các hoạt động bảo tàng.

Di sản văn hóa phi vật thể hết sức phong phú và đa dạng. Song, để giữ gìn và phát huy chúng, chúng ta cần xuất phát từ đặc trưng lớn nhất, bao quát nhất của di sản văn hóa phi vật thể là nó chỉ được lưu giữ – tiềm ẩn trong trí nhớ của con người và được biểu đạt thông qua các hành vi – hoạt động cụ thể của con người: Ta chỉ có thể thưởng thức cái hay, cái đẹp của một làn điệu dân ca thông qua trình diễn của một nghệ nhân; ta chỉ có thể hiểu đúng, hiểu đầy đủ giá trị các vật dụng của đồng bào các dân tộc (con dao, cái cày, khung cửi, tấm vải…) khi được chứng kiến, chí ít là được biết, quá trình đồng bào các dân tộc làm ra chúng và sử dụng chúng… Tương tự như vậy, các nghề thủ công truyền thống làm sao tồn tại được, phát triển được nếu không thông qua sự trao truyền kinh nghiệm, kỹ thuật sản xuất giữa các thế hệ. Đồng thời, nếu không được chứng kiến quá trình sáng tạo ra các sản phẩm thủ công thì làm sao chúng ta thấu hiểu được biết bao giá trị đã kết tinh trong các sản phẩm ấy?

Vậy nên, nhiệm vụ giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của các bảo tàng trước hết cần tập trung vào việc giải quyết một số vấn đề sau đây:

– Cần nghiên cứu, học hỏi (đặc biệt là học hỏi trong nhân dân, trong thực tiễn cuộc sống của đồng bào các dân tộc, ở các vùng miền) để nắm bắt được đầy đủ những thông tin xung quanh các hiện vật hiện có của bảo tàng, nhất là đối với các hiện vật được trưng bày (quá trình sáng tạo và cách thức, ý nghĩa của việc sử dụng chúng). Các thông tin ấy cần được bảo tàng tư liệu hóa bằng nhiều hình thức, phương tiện khác nhau như ghi chép, chụp ảnh, ghi âm, quay phim… Từ đó, chọn lựa để bổ sung cho nội dung trưng bày và thuyết minh – tuyên truyền của bảo tàng. Làm được như thế, các hiện vật trưng bày sẽ tránh được vẻ im lặng, lạnh lùng. Mặt khác, nhờ đó các chủ thể sáng tạo và lưu giữ di sản văn hóa phi vật thể cùng khách tham quan mới thực sự được tham gia (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào các hoạt động của bảo tàng.

– Bảo tàng cũng rất cần quan tâm tới việc sưu tầm và bằng các hình thức, phương tiện vừa kể trên để giới thiệu các di sản văn hóa phi vật thể của các nhóm người, cộng đồng tộc người thuộc đối tượng trưng bày của bảo tàng – về tất cả các dạng tồn tại của chúng như tiếng nói, chữ viết, diễn xướng dân gian, lễ hội, văn hóa ẩm thực, trang phục truyền thống… Việc đưa những nội dung này vào trưng bày và giới thiệu của bảo tàng sẽ giúp cho khách tham quan hiểu biết đầy đủ hơn, trong nhiều trường hợp có thể so sánh, đối chứng để hiểu sâu sắc hơn thực tế cuộc sống sinh động của các cộng đồng, các dân tộc, tức là bảo tàng đã giúp cho khách tham quan có những hiểu biết về môi trường tự nhiên và nhân văn của tất cả các hiện vật được trưng bày tại bảo tàng.

– Chú trọng việc sưu tầm các công trình nghiền cứu, các nguồn tư liệu khác nhau (băng ghi âm, ghi hình, chụp ảnh…) của các nhà nghiên cứu và các cơ quan khoa học chuyên ngành hoặc có liên quan đến hoạt động điều tra, nghiên cứu về di sản văn hóa phi vật thể. Hoạt động này sẽ giúp cho các cán bộ bảo tàng kế thừa và phát huy ngày càng đầy đủ các kết quả khảo sát, nghiên cứu di sản văn hóa phi vật thể của nhiều người, từ nhiều lĩnh vực, đồng thời đó cũng chính là những tư liệu quý bổ sung cho trưng bày của bảo tàng.

– Bảo tàng cần mở rộng các hoạt động theo hướng gắn bảo tàng với cuộc sống thông qua việc tổ chức các cuộc trình diễn, giới thiệu về di sản văn hóa phi vật thể ngay tại bảo tàng. Nội dung các cuộc trình diễn thường bao gồm các hoạt động cơ bản như: các nghệ sĩ, nghệ nhân dân gian biểu diễn các hoạt động văn hóa, văn nghệ và các nghề thủ công truyền thống; mời công chúng (kể cả trẻ em) tham gia các hoạt động trình diễn; trưng bày các tài liệu, hiện vật là nguyên liệu, công cụ, sản phẩm của các hoạt động văn hóa, văn nghệ, nghề thủ công truyền thống được trình diễn. Cùng với đó, một số sản phẩm của các nghề thủ công này cũng được bán cho khách tham quan có nhu cầu.

Thực tế cũng cho thấy, khách tham quan sau khi tham dự trình diễn bao giờ cũng dành một khoảng thời gian đáng kể để đi tham quan toàn bộ trưng bày trong nhà và ngoài trời của bảo tàng. Như vậy, bằng việc tổ chức các cuộc trình diễn nói trên, bảo tàng đã đồng thời đạt được nhiều hiệu quả:

– Giúp công chúng được trực tiếp chứng kiến quá trình sản xuất ra các sản phẩm tương tự như các hiện vật, tài liệu đã được bảo tàng sưu tầm – trưng bày. Do đó, công chúng được dịp nhận thức giá trị nhiều mặt của các tài liệu, hiện vật trưng được bày tại bảo tàng bằng trực quan sinh động.

– Các nghệ nhân, nghệ sĩ dân gian có dịp giao lưu với công chúng, được giới thiệu về vốn di sản văn hóa mà chính họ là người đang trực tiếp tham gia bảo tồn và tiếp tục phát huy. Qua các hoạt động đó, khơi dậy lòng tự hào và khích lệ họ tiếp tục làm tốt hơn công việc này. Trong một số trường hợp, các nghệ nhân còn trực tiếp quảng cáo và bán được các sản phẩm của mình cho khách tham quan.

– Bảo tàng thu hút được đông đảo các đối tượng đến tham gia trình diễn và tham quan bảo tàng, qua đó cho thấy hoạt động của bảo tàng thể hiện rõ ràng và sinh động sự gắn bó với cuộc sống. – Bảo tàng vừa tranh thủ được các nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế để tổ chức các hoạt động của mình, vừa tuyên truyền, giới thiệu có hiệu quả giá trị di sản văn hóa dân tộc với du khách quốc tế.

Hiện nay, các cuộc trình diễn do Bảo tàng Dân tộc học tổ chức cần được đánh giá là một trong những giải pháp hữu hiệu trong quá trình thực hiện đổi mới các hoạt động của bảo tàng nhằm gắn bảo tàng với cuộc sống hiện tại. Đành rằng các hoạt động trình diễn này do gắn bó chặt chẽ với nội dung trưng bày của Bảo tàng Dân tộc học nên không thể đem áp dụng nguyên vẹn vào các bảo tàng khác. Nhưng theo cách nghĩ, cách làm đó, các bảo tàng ở Việt Nam – nhất là các bảo tàng tỉnh, thành phố hoàn toàn có thể căn cứ vào nội dung trưng bày và địa bàn hoạt động của bảo tàng mình để vận dụng và tìm ra các hoạt động phù hợp và hiệu quả.

Việc đẩy mạnh các hoạt động của bảo tàng nhằm giữ gìn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể chính là một nội dung quan trọng của quá trình đổi mới nhằm tăng cường khả năng tuyên truyền, giáo dục, tăng cường tính hấp dẫn của các hoạt động bảo tàng và gắn kết các hoạt động của bảo tàng với đời sống.

Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay hoạt động sự nghiệp bảo tàng đòi hỏi phải năng động, đa dạng hóa các hoạt động của bảo tàng. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của công chúng và thể hiện được việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa các dân tộc Việt Nam, góp phần “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.

TP.HCM, ngày 27 tháng 5 năm 2014

PHẠM TUẤN TRƯỜNG

Viên chức Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ