BÀ SƯƠNG NGUYỆT ANH- NGƯỜI KHỞI XƯỚNG CHO SỰ RA ĐỜI BÁO PHỤ NỮ VIỆT NAM

BÀ SƯƠNG NGUYỆT ANH- NGƯỜI KHỞI XƯỚNG CHO SỰ RA ĐỜI

BÁO PHỤ NỮ VIỆT NAM

Trang chủ của Google Doodle ngày 01/02/2023 là hình ảnh của bà Sương Nguyệt Anh- chủ bút báo nữ giới đầu tiên của Việt Nam. Nhân sự kiện này, Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ giới thiệu đến bạn đọc đôi nét về bà Sương Nguyệt Anh và tờ báo đầu tiên của phụ nữ Việt Nam do bà làm chủ bút.

Vào thế kỷ 18, 19 tại Việt Nam đã xuất hiện những nhà thơ nữ danh tiếng, trong đó có 4 cây bút tài hoa:

Đoàn thị Điểm (đầu thế kỷ 18) với tác phẩm “Truyền kỳ tân phả”. Bà còn biên dịch tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn một cách xuất sắc được người đời khen là lời văn hoa mỹ bóng bẩy.

Bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương (cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19) đã để lại một kho tàng thơ thực sự độc đáo, giàu tính nghệ thuật, cho đến bây giờ nhiều bài thơ của bà vẫn chưa tìm thấy đầy đủ; thơ của bà là thơ “vừa thanh vừa tục”, bà viết văn cả bằng chữ Nôm và chữ Hán. Thực sự, có thể xem bà là người phụ nữ Việt Nam có tư tưởng tiến bộ đầu tiên khi đã vượt qua rào cản của những luật lệ và một số phong tục cổ hủ thời bấy giờ để đưa những tâm tư tận đáy lòng của người phụ nữ lên những vần thơ. Bà được coi là một trong những nhà thơ Việt Nam tiêu biểu của chủ nghĩa nhân văn trong văn học Việt Nam luôn đấu tranh bênh vực quyền lợi phụ nữ.

 Nguyễn Thị Hinh (Huyện Thanh Quan) một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam, hầu hết viết bằng chữ Nôm, theo thể Đường luật, gồm những bài như: Thăng Long thành hoài cổ”, “Qua đèo Ngang”, “Chiều hôm nhớ nhà”… với biệt tài làm thơ, tả cảnh, tả tình.

Lê Ngọc Hân nổi tiếng với “Ai Tư Vãn” và “Văn tế” ca ngợi công đức của người anh hùng “áo vải cờ đào – Quang Trung”.

Đến đầu thế kỷ XX khi nền văn hoá phương Tây du nhập vào Việt Nam, vai trò của người phụ nữ trong xã hội bắt đầu chuyển biến rõ rệt, từng bước có những thay đổi theo xu hướng tiến bộ. Từ những công việc nội trợ, nhiều phụ nữ đã vươn ra hoà nhập với xã hội bằng những công việc trước đó chỉ có nam giới mới được làm. Sự xuất hiện các tờ báo phụ nữ và các chuyên mục phụ nữ trên các báo là kết quả của sự du nhập những tư tưởng dân chủ phương Tây và phong trào nữ quyền thế giới. Phụ nữ đã trở thành vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Hầu hết, các báo phát hành thời kỳ này đều có mục dành cho phụ nữ. Từ năm 1930 đến năm 1945, ở Việt Nam đã hình thành nên dòng báo chuyên biệt dành cho phụ nữ, của phụ nữ và vì phụ nữ. Các tờ nữ báo và các tác giả nữ, vấn đề phụ nữ được nhận diện một cách chân thực hơn, sâu sắc hơn và phản ánh được nguyện vọng cũng như tâm tư, tình cảm của phụ nữ chính xác hơn. Số phụ nữ làm báo thời kỳ này không nhiều, họ thường tập trung vào những vấn đề có liên quan đến phụ nữ.

Nữ giới chung- tờ báo phụ nữ đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam. Đầu những năm 1929 – 1930, cùng với sự phát triển của phong trào phụ nữ thế giới, sự lớn mạnh của đội ngũ nữ trí thức ngày càng đông đảo và ngày càng có vai trò trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội… hình thành nên dòng báo phụ nữ như: báo Phụ nữ Tân văn ra đời năm 1929 đến năm 1935. Đầu thập niên 1930, ở cả ba kỳ đều xuất hiện báo phụ nữ và trong những năm sau đó, không thời gian nào là không có ít nhất một tờ báo phụ nữ đang tồn tại. Tờ này ngừng phát hành thì có một tờ báo khác ra đời với sự tham gia của nhiều phụ nữ trí thức xuất bản báo, viết báo… Đó là chủ nhiệm các tờ báo phụ nữ như bà Nguyễn Đức Nhuận- báo Phụ nữ Tân văn ở Sài Gòn (1929-1935) mà thế hệ sau đánh giá là thành công nhất trong số các tờ báo phụ nữ trước 1945, bà Lê Thành Tường – báo Phụ nữ Tân tiến ở Huế (1932 -1934), Phụ nữ thời đàm tại Hà Nội (1930 -1934), bà Thụy An của báo Đàn bà mới tại Sài Gòn (1930-1937), tạp chí Đàn bà xuất bản tại Sài-Gòn, bà Nguyễn Thanh Tú – báo Phụ nữ 1938-1939, Tân nữ lưu (1935 -1936), bà Vũ Thị Mai Hương chủ bút báo Việt nữ (1937 -1939), tờ Bạn Gái (1941)… và các nữ phóng viên như Nguyễn Thị Kiêm, Phạm Vân Anh, Vân Đài, Lê Thị Huỳnh Lan, Phan Thị Nga, Trần Thị Hường, Thu Vân, Mộng Tuyết, Huỳnh Thị Bảo Hòa…

Nội dung của các tờ nữ báo phản ánh quá trình nhận thức của phụ nữ về vai trò và địa vị của phụ nữ trong xã hội, vấn đề nữ quyền và giải phóng phụ nữ, phản ánh đời sống của các tầng lớp phụ nữ dưới chế độ thuộc địa, phản ánh phong trào phụ nữ tư sản… Đặc biệt, với tư cách là những tờ báo cho phụ nữ, của phụ nữ và vì phụ nữ. Các tờ nữ báo quan tâm tới những vấn đề thuộc tâm tư tình cảm của phụ nữ, cũng như việc xây dựng hình ảnh người phụ nữ lý tưởng của thời đại. Các nhà báo nữ đã đưa được những vấn đề của phụ nữ lên một diễn đàn công khai để thảo luận, làm nên một diện mạo riêng, một sắc thái riêng cho những tờ báo nữ.

Tờ báo phụ nữ Việt Nam đầu tiên do bà Sương Nguyệt Anh, tên thật Nguyễn Xuân Khuê (1864-1921) làm chủ bút. Bà sinh ngày 8/3/1864 tại làng An Bình Đông, tỉnh Bến Tre, là con gái thứ 5 của cụ Nguyễn Đình Chiểu (Đồ Chiểu). Mẹ là bà Lê Thị Điền, người làng Thanh Ba thuộc huyện Cần Giuộc.

Bà học giỏi, thường làm thơ bằng chữ Hán hay quốc ngữ để bày tỏ tâm sự trước cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lầm than đau khổ. Ngoài bút hiệu Sương Nguyệt Anh, bà còn ký nhiều bút hiệu khác như Xuân Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh…

Bà kết duyên cùng một Phó Tổng sở góa vợ tên Nguyễn Công Tính (có sách ghi Nguyễn Công Trinh, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Công Tín), sau đó sinh được cô con gái là Nguyễn Thị Vinh. Phó Tổng sở Nguyễn CôngTính bị Phủ Xuyên âm mưu sát hại. Chồng chết khi con gái vừa tròn 2 tuổi, ở cái tuổi 30, bà quyết không đi thêm bước nữa, thủ tiết nuôi con, thờ chồng và mở trường dạy chữ Nho cho học trò trong vùng để sinh sống. Cũng từ đó, bà thêm trước bút hiệu Nguyệt Anh một chữ “Sương”, thành “Sương Nguyệt Anh”, có nghĩa là “Nguyệt Anh góa chồng”.

Tờ báo phụ nữ đầu tiên ở Việt Nam, xuất bản số đầu ngày 1 tháng 2 năm 1918 do bà Sương Nguyệt Anh – chủ bút. Báo “Nữ giới chung” là tuần báo đầu tiên của nữ giới ở Nam bộ. Tòa soạn đặt tại số 13, đường Taberd – Sài Gòn. Ngay số đầu tiên, bà Sương Nguyệt Anh đã đưa ra đường lối của tờ báo này là: “nâng cao nền luân lý; dạy cho độc giả biết cách sống hằng ngày; chú trọng đến nền thương mãi và tiểu – thủ công nghiệp, tạo tiếp xúc giữa con người” v.v…

 Là chủ bút, bà phản ánh sự trăn trở của phụ nữ trước vấn đề tiếp thu những tư tưởng mới – tư tưởng dân chủ, nữ quyền… với việc bảo lưu những giá trị đạo đức truyền thống trước sự xâm nhập của văn hóa phương Tây vào mọi mặt đời sống của phụ nữ. Trên tờ báo này, bên cạnh những bài tranh luận thế nào nữ quyền, bình đẳng nam nữ, bà Sương Nguyệt Anh còn viết nhiều bài thơ khích lệ tinh thần yêu nước bằng việc nêu lại những tấm gương sáng về tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của những nữ anh hùng dân tộc Trưng Trắc, Trưng Nhị, Triệu Ẩu… Sau gần một năm hoạt động, xuất bản được hơn 20 số báo, tháng 7/1918, tờ báo đã bị chính quyền thuộc Pháp buộc đình bản. Cùng lúc này, người con gái độc nhất của bà (Nguyễn Thị Vinh) vừa sinh nở xong, ngã bệnh qua đời.

Suốt 20 số báo, Sương Nguyệt Anh dành trọn cả tài năng và tâm huyết của mình để góp phần làm chấn hưng tinh thần nữ giới nước nhà. Chính vì những số báo phát hành đều đề cập đến việc dạy nữ công, đức hạnh phụ nữ và phê phán luật lệ khắt khe với nữ giới thời đó, đồng thời chủ trương đấu tranh mạnh mẽ cho vấn đề bình đẳng nam nữ. Cả đời bà đem tâm huyết của mình về vấn đề nữ quyền Việt Nam cố gắng phổ biến vào trong thơ văn góp phần tô điểm cho non sông đất nước.

Tiếp sau tờ “Nữ giới chung”, “Phụ nữ Tân văn” là tuần báo tiến bộ thứ 2 của giới nữ do một người phụ nữ ở Gò Công là bà Cao Thị Khanh- vợ ông Nguyễn Đức Nhuận là chủ bút. Tuần san số 1 xuất bản ngày thứ năm (02/05/1929). Ban biên tập “Phụ Nữ Tân văn” gồm những cây bút nữ nổi tiếng, đứng đầu là bà chủ nhiệm Cao Thị Khanh và các nữ ký giả Hướng Nhựt, Trần Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Kiêm… Hầu như bìa tất cả các số của báo Phụ Nữ Tân Văn đều có hình ba cô gái tượng trưng phụ nữ ba miền: Bắc – Trung – Nam. Dưới có câu thơ: “Phấn son tô điểm sơn hà – Làm cho rõ mặt đàn bà nước Nam”.

Liên tiếp 14 số đầu, Phụ nữ Tân văn đã đăng những bài phỏng vấn các vị trí thức, học giả đương thời như cụ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng… Tất cả đều tán đồng chủ trương tiến bộ của Phụ nữ Tân văn, cổ súy dân sinh dân chủ, bênh vực phụ nữ, đề cao luân lý giáo dục… Báo còn mở nhiều hội chợ lấy tiền lãi xây dựng viện Dục Anh, quán cơm từ thiện, phòng trọ đêm cho khách lỡ đường… Phụ nữ Tân văn còn vận động thành lập Nữ lưu học hội và thành lập giải thưởng “văn học và đức hạnh”, nhằm biểu dương người tốt việc tốt trên báo; đặc biệt, là bênh vực quyền lợi nữ giới phản đối quan niệm cổ hủ, ngăn cấm nữ giới tham gia các hoạt động XH.

Phụ nữ Nam bộ kế thừa truyền thống cầm bút của những vị nữ tiền bối cầm bút sáng tác thơ văn và đặc biệt làm báo, viết báo với những hình thức văn chương đa dạng theo tinh thần nhân đạo chủ nghĩa và đấu tranh bênh vực quyền lợi phụ nữ. Họ đã dũng cảm nói lên tâm tư và tình cảm của mình về vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội bằng những bài xã luận khá sắc sảo.

Phát huy vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực báo chí, ngay khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan tâm tới vai trò của báo chí trong công cuộc vận động cách mạng. Với tư cách là một công cụ tuyên truyền của Đảng, báo chí Việt Nam rõ ràng đã có những đóng góp quan trọng làm nên chiến thắng của cả dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, để có được nền độc lập tự do như ngày hôm nay, trong đó có những đóng góp quan trọng của của các nữ nhà báo.

Nhiều phụ nữ trí thức cách mạng tham gia viết báo vận động phụ nữ phát huy truyền thống yêu nước, tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc như Nguyễn Thị Minh Khai, Trần Thị Như Mân, Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Thị Thu… Những nữ nhà báo cách mạng không chỉ viết bài trên các tờ báo cách mạng mà còn viết bài cho nhiều tờ báo công khai, khơi dậy truyền thống yêu nước của dân tộc… Những nữ nhà báo như Nguyễn Thị Lựu, Mai Huỳnh Hoa,… cùng với Ban biên tập tờ báo Tin tức, báo Lao động đã hướng dẫn phụ nữ, sát cánh bên họ trong cuộc Vận động Đông Dương Đại Hội những năm 1936-1939, tổ chức vận động phụ nữ tham gia phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ và cải thiện đời sống… cũng như tham gia các Hội cứu quốc thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945.

Số báo 15 của báo “Nữ giới chung”

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 02 năm 2023

Nguyễn Thị Thắm