ÁO DÀI XƯA VÀ NAY

Nói đến “Lịch sử hình thành của chiếc áo dài”cần phải nhìn lại một chút y phục Việt cổ xưa. Căn cứ vào những hiện vật khảo cổ để lại như: cán dao Đông Sơn có tạc hình người với y phục giản dị, ngực để trần chỉ có một mảnh vải ngang bụng xuống gần đầu gối.

Nói đến “Lịch sử hình thành của chiếc áo dài”cần phải nhìn lại một chút y phục Việt cổ xưa. Căn cứ vào những hiện vật khảo cổ để lại như: cán dao Đông Sơn có tạc hình người với y phục giản dị, ngực để trần chỉ có một mảnh vải ngang bụng xuống gần đầu gối. Trên trống đồng Ngọc Lũ lại chạm cảnh người chèo thuyền hoặc nhảy múa với y phục tua tủa như lông chim. Theo các nhà nghiên cứu, chiếc áo dài truyền thống của người Việt Nam đã có một quá trình hình thành vài thế kỷ. Chiếc áo dài của người Lạc Việt xa xưa được may theo kiểu cài khuy bên trái, nhưng trải qua binh biến đô hộ của người phương Bắc thì áo đổi sang cài nút bên phải. Người phụ nữ lúc bấy giờ thường mặc áo tứ thân.

Căn cứ vào thư tịch cổ, đến nay các nhà nghiên cứu chưa thể khẳng định được nguồn gốc chiếc áo dài phụ nữ Việt Nam có từ khi nào? Chỉ biết rằng các nét chạm trổ của nghệ thuật điêu khắc đình làng đã từng miêu tả y phục của người phụ nữ quý tộc Việt Nam thời Lê – Mạc là kiểu áo dài có lối cài vạt áo dưới nách phải – các nhà nghiên cứu cho là một trong những yếu tố Bắc phương. Chiếc áo truyền thống cổ xưa của người Việt được ghi chép nhiều nhất từ trước đến nay là hình ảnh chiếc áo năm thân và áo tứ thân.

Áo năm thân: Vào năm 1956 ở Thanh Hóa, trên cánh đồng Bà Chúa có đào được 2 ngôi mộ cổ (1 già, 1 trẻ) mặc áo dài 5 thân và quần lụa đen. Theo nghiên cứu của các nhà khảo cổ học, hai ngôi mộ cổ xuất phát từ thời Lê Trịnh, nghĩa là từ thời Nam Bắc phân ranh. Vậy nên áo dài năm thân không xuất phát từ thời chúa Nguyễn Phúc Khoát và không bắt chước kiểu áo dài của người Chăm hay áo Thượng Hải như mọi người vẫn lầm tưởng.

Thế kỷ XVII, áo năm thân xuất hiện nhưng có sự khác biệt giữa kiểu áo ở đàng ngoài và đàng trong. Năm thân ở đàng ngoài được mặc với váy là kiểu áo có vạt ngoài, còn gọi là vạt cả hướng bên trái người mặc, vạt trong rộng gấp đôi hướng phải người mặc, còn có vạt con, cổ áo thấp, hở rộng phần ngực không che kín bởi vạt cả và vạt con mà để lộ cả phần yếm bên trong, áo không cài khuy cạnh sườn mà dùng thắt lưng ngang bụng buông xuống phía trước. Áo năm thân ở đàng trong được người phụ nữ mặc cùng với quần dài màu đen, aó được cài khuy phải như áo của người Hoa, cổ áo cao và đứng. Áo năm thân thời kỳ này rất kín đáo, ngoài 4 vạt nối dọc 2 thân áo thì có thêm 1 vạt con che gần hết phần ngực.

Áo năm thân trở thành kiểu áo của người thành thị và của người tầng lớp trên. Qua năm tháng áo dài năm thân được dùng phổ cập cho giới nữ và sữa đổi cho đến ngày nay. Đàn ông mặc áo dài năm thân phổ biến cho đến năm 1945. Áo dài năm thân có 2 loại: áo chẽn và áo thụng. Aó chẽn, áo may sát người, tay áo ôm sát tay người mặt và dài tới mắt cá tay, là loại áo thường. Aó thụng, rộng thùng thình, cánh tay áo rộng và dài. Cửa tay rộng khoảng 40 – 50cm, dài hơn mắt cá tay khoảng 20 – 30cm, là loại áo lễ phục dùng cho cả nam và nữ.

Áo tứ thân (áo giao lãnh): là áo năm thân bỏ bớt đi nửa tà phía trước, từ cổ xuống đến gấu, nguyên nhân do tính tiết kiệm của người dân quê. Áo tứ thân phía trước có hai vạt như nhau, không đấu với nhau ở trước ngực, mà thắt vạt trước bụng. Hoặc chiếc thắt lưng được thắt bên trong áo dài và bỏ múi trước bụng. Đàn bà mặc áo tứ thân với váy, đầu vấn khăn bọc tóc, bên ngoài đội nón thúng quai thao.

Áo dài Việt Nam ra đời từ thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1739-1765) mang màu sắc dung hòa của hai miền Nam và Bắc với kiểu áo cổ đứng, tay dài, không hở lườn, cửa tay rộng hoặc hẹp tùy theo mục đích sử dụng. Thời Vua Gia Long (1762-1820), chiếc áo dài của phụ nữ có kiểu áo hai vạt buông thả xuống, không cài khuy, cũng có khi buộc hai vạt vào nhau nên người ta gọi là áo buộc vạt. Song song đó, phụ nữ miền Nam còn có kiểu áo năm thân kín cổ, có người mặc áo mớ ba cài nút kín cổ, cổ áo trong cao hơn cổ áo ngoài. Bên trong mặc áo ngắn có túi và quần lãnh đen, chứ không mặc áo yếm như phụ nữ miền Bắc.

Vào những năm 1930 của thế kỷ XX do những khuyết điểm của áo dài năm thân cổ truyền, người ta đã mạnh dạn cải tiến nó, nhất là trong tầng lớp thị dân ở các thành phố lớn của nước ta đang có xu hướng Âu hóa. Người ta đưa hình ảnh “cô gái mới” với “áo tân thời”. Đặc điểm của áo dài tân thời là chi tiết nhấn eo cho áo ôm sát vào người làm tôn vẻ đẹp và vẻ gọn gàng của người mặc, phô ra những gì mà chiếc áo dài cổ truyền trước đây vẫn cố tình che giấu. Hai người đứng ra cải tiến một số chi tiết trên áo dài vào năm 1930 là họa sĩ Lê Phổ và Cát Tường (còn có biệt hiệu là Le Mur). Áo dài Lê Phổ không phá bỏ hẳn những chi tiết của áo dài cổ truyền mà chỉ cải tiến chúng vừa đủ, vẫn giữ vẻ kín đáo, nền nã của phụ nữ Việt Nam như cổ áo chỉ dám hạ thấp hơn phân nữa, gấu áo rút ngắn lên một đọan, nẹp tà và thân áo hơi ôm sát hơn vào người, không còn quá rộng thùng thình như trước.

Trong khi đó áo dài Le Mur cải tiến táo bạo hơn, gán ghép cho áo dài Việt Nam những nét vay mượn từ thời trang của phụ nữ Âu – Tây thời đó. Tuy nhiên, áo dài Le Mur chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, không được đông đảo người hưởng ứng, vì nó lai Tây quá nhiều. Cuộc đấu tranh về quan niệm thẩm mỹ để bảo vệ cái đẹp giản dị, thanh nhã của dân tộc. Năm 1939 -1940, áo dài Le Mur ban đầu có những thay đổi trở về dạng áo dài cổ truyền. Năm 1954, chiếc áo dài được cải tiến với tà rộng, eo thắt, nhấn pince trước và sau, dài chấm gót, cổ áo cao có lót hồ cứng, ống tay hẹp, mặc phổ biến với đôi guốc cao gót.

Năm 1958, miền Nam xuất hiện chiếc áo dài cổ hở (cổ thuyền) của bà Trần Lệ Xuân được xem là thay đổi nổi bật của chiếc áo dài giai đọan này. Cổ áo được khoét rộng nên thân áo không có đường hò ngang, thêm vào đó, người ta cài nữ trang trên đường hò dọc để giữ áo ngay ngắn khi người mặc cử động mạnh. Dần dần lối cổ hở được biến hóa đôi chút thành cổ tròn, cổ vuông hoặc khoét rộng xuống lưng cho hở theo hình trái tim…và cổ áo không cài nút mà kéo dây kéo (fermeture) phía sau, đôi khi áo được thiết kế không tay, hở trần cả vai, vạt áo ngắn.

Năm 1968, phong trào chiếc áo dài mi-ni với những chi tiết thay đổi như tà áo rất hẹp, vạt ngắn đến đầu gối, hoặc phủ đầu gối. Tay raglan chứ không nối ở giữa khuỷu tay như trước. Tà áo được xẻ cao, bên trong không mặc áo lá, để hở một chút ở khoảng eo từ 3-5 cm. Áo rộng, không chít eo, nhưng vẫn lượn theo thân thể. Cổ áo thấp xuống từ 1 đến 3 phân, lai áo từ 3 đến 5 cm, tay áo loe. Quần dài, ống rộng có khi đến 60 cm.

Năm 1971-1972, xuất hiện quần patte mặc với áo dài, nhưng mọi người nhận thấy mất đi vẻ thướt tha mềm mại vốn có của dáng vẻ áo dài truyền thống nên kiểu dáng này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.

Thập niên 1975, áo dài không thay đổi nhiều, chủ yếu chỉ thay đổi về chất liệu vải, hoa văn được trang trí trên vạt áo dài với những nét vẽ hiện đại đầy màu sắc. Bên cạnh đó, cũng có sự cải tiến về hình dáng chiếc áo dài theo lối Đông – Tây. Tuy nhiên, sự cải tiến này chỉ nhằm để trình diễn thời trang mà thôi. Chiếc áo dài có nhiều cách tân theo khuynh hướng thời trang mới, song kiểu dáng truyền thống cổ cao khoảng 2-5 phân, xẻ tà, tà áo rộng, tay raglan trở nên phổ biến trong mọi tầng lớp phụ nữ Việt Nam.

Những năm 1980 là thời kỳ của chiếc áo dài thêu, với nhiều mẫu hoa, chim, cây lá, từ ngực ngực xuống tới vạt bằng vải soie, suisse đủ màu tùy theo lứa tuổi. Đến những năm 1990, chiếc áo dài tà rộng, vạt dài tới gót, nhấn ‘pince”, cổ áo cao hoặc với nhiều dạng cổ khác nhau như trẹt, tròn.. Áo dài hiện nay được may bằng nhiều chất liệu: gấm, thổ cẩm, tơ lụa với nhiều biến tấu của những nhà tạo mẫu cùng với thị hiếu của phụ nữ, song về cơ bản văn giữ được nét đặc trưng riêng.

Hiện nay, chiếc áo dài Việt Nam có vẻ đã “định hình” và được xem là khá “hoàn chỉnh”, dường như phát triển tối đa ưu điểm có thể có của nó. Đó là kiểu “áo dài tay Raglan”, tay áo ráp xuống thẳng từ chân cổ xuống nách khiến áo không còn bị nhăn từ vai và nách. Đi đôi với chiếc áo dài cụ thể là chiếc quần ống rộng để tôn vẻ dịu dàng, thướt tha cho người mặc.

Để tận mắt xem sự khác biệt của áo dài xưa và nay, Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ hiện đang trưng bày 62 hình ảnh và 72 hiện vật áo dài xưa và nay. Trong giới hạn của phòng trưng bày, chúng tôi không thể giới thiệu hết quá trình phát triển của “Áo dài Việt Nam” qua từng giai đoạn lịch sử mong được đón tiếp và góp ý kiến của quý quan khách. Phòng trưng bày chuyên đề “Áo dài xưa và nay” mở cửa từ ngày 6/3/2016 đến hết ngày 15/4/2016.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 3 năm 2016

Nguyễn Thị Kim Voanh

Â

alt

alt

alt