Phấn son tô điểm sơn hà

Tại đền thờ Huyền Trân Công chúa ở Huế vẫn còn lưu giữ dòng lưu bút xuất thần của Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trương Mỹ Hoa: “Có những vấn đề của phụ nữ phải được giải quyết từ quốc gia, có những vấn đề quốc gia phải giải quyết từ người phụ nữ”. Lịch sử mấy nghìn năm của đất nước và dân tộc Việt đã lưu giữ biết bao những câu chuyện đặc biệt về những người phụ nữ

Phụ nữ Việt Nam trong lịch sử xa xưa

Những người anh hùng dân tộc đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt đều là phụ nữ. Hai Bà Trưng, bởi thù nhà, nợ nước đã đứng lên phất cờ khởi nghĩa, đánh đuổi quân đô hộ, thiết lập triều đình riêng “Ải bắc quân thù kinh vó ngựa”. Tiếng vang và hình ảnh uy nghi lẫm liệt của những bậc anh thư ấy của nước Việt đã làm cho Chu Ân lai, Thủ tướng Trung Quốc phải thốt ra lời khi tiếp Cố vấn Hoa Kỳ Henry Kissenger: “Họ (Việt Nam – NV) là một dân tộc vĩ đại, anh hùng và đáng khâm phục. Hai nghìn năm trước, Trung quốc đã xâm lược họ, và Trung quốc đã bị đánh bại. Lại bị đánh bại bởi hai người đàn bà, hai nữ tướng”. Gần hai nghìn năm sau tại Đà Nẵng, ngài Tổng thống Mỹ Donald Trump đã nhắc lại: “Việt Nam là một đất nước mạnh mẽ. Từ những năm 40 sau công nguyên, Hai Bà Trưng đã khơi dậy tinh thần dân tộc của những người dân đất nước này. Đó là lần đầu tiên dân tộc Việt Nam đứng lên vì nền độc lập và niềm tự hào dân tộc của các bạn”. Người anh hùng dân tộc tiếp theo cũng là một phụ nữ: Triệu Thị Trinh. Ngán thay cho các đấng nam nhi của dân tộc được gọi là “Hoa Hạ”, đánh không thắng nổi một người đàn bà và đã dùng đến mưu mô xảo quyệt: ra lệnh cho quân lính cởi bỏ quần áo. Dẫu có là anh hùng lẫm liệt thì Bà Triệu vẫn chưa thoát khỏi cái e thẹn của nữ nhi thường tình. Phải chi bà như mấy cô hôm nay, thấy quân giặc cởi bỏ y phục rút kiếm xông lên hô lớn: Đứa nào dám tiến lên bà “cắt” thì đã chả có ngôi mộ gió ở núi Tùng, Triệu Sơn, Thanh Hóa mấy nghìn năm nay. Truyền thống yêu nước “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh ấy” đã truyền lại cho các thế hệ con cháu để rồi suốt các cuộc trường chinh của lịch sử dân tộc, sát cánh cùng các đấng nam nhi là các bậc anh thư trác tuyệt.

Khởi nghĩa Bà Triệu năm 248 (Tranh minh họa)

Lão Tử đã từng nói với các học trò rằng: Cái gì cứng dễ gãy, cái gì mềm sẽ bền lâu. Có phải vì vậy mà trong những thời khắc đặc biệt của lịch sử, nhiều người phụ nữ đã được lịch sử chọn giao trách nhiệm thiêng liêng đứng ra gánh vác sơn hà. Đó là một Dương Vân Nga trước bối cảnh nhà Tống lăm le xâm lược và vua con nhỏ tuổi đã tự tay khoác áo hoàng bào cho Lê Hoàn và mời ngài lên ngôi vua để thống lĩnh ba quân tướng sỹ đương đầu với quân thù. Đừng đem hệ quy chiếu của hôm nay hoặc hệ quy chiếu của Nho giáo để “bình loạn” về hành động vì nước này của Thái hậu Dương Vân Nga bởi vì khi ấy, Nho giáo đâu đã thịnh hành ở Việt Nam để mà bắt buộc “Tam cương, ngũ thường”. Mấy trăm năm sau Thái hậu Dương Vân Nga, khi khí số nhà Lý đã suy đến cùng cực, giặc giã nổi lên khắp nơi, nhân dân lầm than, khốn khổ thì lại xuất hiện một Trần Thị Dung. Lịch sử không có chữ nếu song nếu năm ấy Linh Từ Quốc mẫu không đứng ra gánh vác trọng trách này liệu đất nước sẽ ra sao trong cuộc xâm lăng sau đó của giặc Mông – Nguyên. Một bà thái hậu là vợ của vua Lý phải chấp nhận lấy em họ mình, lấy kẻ đã giết chồng mình, một bà mẹ của đương kim thánh thượng đã tìm cách để con gái mình: Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh cũng là cháu ruột gọi mình là cô. Việc nhường ngôi êm đẹp ấy đã ra đời một triều đại hiển hách có lịch số hơn 200 năm với hào khí Đông A đã đánh cho kẻ thù kinh hồn bạt vía. Cũng chính Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung là người đã thống quản toàn bộ triều đình xuôi về Nam Định thực hiện kế sách “Vườn không nhà trống” để các đấng nam nhi yên tâm giết giặc. Sau Trần Thị Dung không lâu, một người cháu của bà là An Tư Công chúa đã tình nguyện sang trại giặc làm vợ Thoát Hoan để giúp thư nạn cho nước. Thoát Hoan thua phải chui vào ống đồng chạy về Trung Quốc và bà cũng đã đi theo chồng. An Tư Công chúa, bây giờ hồn người ở nơi đâu? Còn biết bao những người phụ nữ mà chỉ cần nhắc tới tên họ cũng đủ làm cho các đấng nam nhi phải nghiêng mình.

Hôn nhân, đặc biệt là hôn nhân chính trị đã có từ cổ xưa. Thế nhưng với nước Việt, các cuộc hôn nhân chính trị có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi chính các cuộc hôn nhân này đã giúp mở mang lãnh thổ. Có lẽ cuộc hôn nhân chính trị nổi tiếng giúp nước Việt mở rộng cương thổ tới phía Bắc Đà Nẵng hiện nay là cuộc hôn nhân của Huyền Trân Công chúa và vua Chế Mân của Champa. Có phải thân gái dặm trường ra đi tới nơi ngàn dặm xa xôi ấy nên mới có điệu Nam Bình hôm nay: “Nước non ngàn dặm ra đi…/Mối tình chi!/ Mượn màu son phấn/ Đền nợ Ô, Lý./ Xót thay vì, Đương độ xuân thì./ Số lao đao hay là nợ duyên gì?…Mấy trăm năm sau Huyền Trân công chúa, năm 1620, Công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Vạn đã về làm dâu Chân Lạp và đặt nền móng cho người Việt mở rộng lãnh thổ về phương Nam. Mười một năm sau cuộc hôn nhân chính trị ấy, vào năm 1631, Công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Khoa cũng về làm vợ vua Po Romê. Nhờ cuộc hôn phối này mà tình giao hảo giữa hai nước được tốt đẹp, để chúa Nguyễn có thể dồn lực lại hòng đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, đồng thời cũng tạo thêm cơ hội cho người Việt mở rộng lãnh thổ về phía Nam. Có phải vì hôn nhân chính trị nên sự hy sinh của các bà ít được nhắc tới hay không? Chỉ biết rằng sử sách nhà Nguyễn sau này ít nhắc tới công lao của hai bà Ngọc Vạn, Ngọc Khoa. Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên về mục Ngọc Vạn và Ngọc Khoa đều ghi là: không có truyện. Sách Phổ hệ nhà Nguyễn trước Gia Long (1920) cũng chỉ vài dòng ngắn ngủi: Ngọc Khoa con gái thứ của Sãi vương, không để lại dấu tích. Ngọc Vạn con gái thứ của Sãi vương, không có dấu tích gì về Ngọc Vạn…

Phụ nữ Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh

Thời đại Hồ Chí Minh, những phẩm chất của phụ nữ Việt Nam được cô đọng trong tám chữ vàng « Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang ». Thời đại Hồ Chí Minh bắt đầu từ khi Người tìm thấy con đường cứu nước, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội cho đến nay. Tiếp nối truyền thống của phụ nữ Việt Nam mấy nghìn năm trước, phụ nữ Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh tiếp tục viết lên những trang sử vàng, góp phần làm rạng danh non sông, đất nước, quê hương xứ sở.

Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chúng ta không thể quên những người phụ nữ đã góp phần làm nên những cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939- 1945. Dù phải hoạt động bí mật, gian khổ, gươm kề cổ, súng kề tai, dù trực tiếp xông pha nơi trận tiền hay âm thầm nuôi giấu, chở che cán bộ, đảng viên, nghĩa quân, họ cũng đã không quản hy sinh thân mình cho cách mạng. Nguyễn Thị Minh Khai, nữ chiến sĩ cộng sản tiêu biểu trong hàng ngũ những chiến sỹ cộng sản Việt Nam đầu tiên, đã nêu bật vai trò cách mạng của phụ nữ Việt Nam tại diễn đàn Đại hội Quốc tế Cộng sản năm 1935. Bà má Hậu Giang, thà chết không khai, tiêu biểu cho khát vọng giành độc lập tự do của cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ. Hàng trăm tấm gương phụ nữ khác đã góp phần nhỏ bé của mình, cùng toàn dân tộc làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám.

Bước vào kháng chiến chống Pháp, thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phụ nữ Việt Nam tiếp tục xông pha trong kháng chiến và kiến quốc. Trong kháng chiến, tiêu biểu là Đội nữ du kích Hoàng Ngân (Hưng Yên) đã làm quân thù khiếp đảm một thời với “đòn gánh đánh Tây” xuất quỷ nhập thần. Trong kiến quốc thì phụ nữ với vai trò bảo đảm hậu phương, áo ấm mùa Đông chiến sĩ đã góp phần không nhỏ vào thành tích xây dựng chế độ mới dân chủ cộng hòa. Hàng chục vạn phụ nữ đã tham gia dân công phục vụ các chiến dịch để cùng toàn dân tộc bước vào chiến dịch Lịch sử Điện Biên phủ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

 

Ẩn giấu sau nụ cười này là ý chí sắt đá đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (Ảnh Tư liệu)

Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam, những tấm gương phụ nữ trung kiên với cách mạng, chiến đấu dũng cảm, làm bạt vía, kinh hồn Mỹ và tay sai. Ta không thể quên chị Trần Thị Lý, dù bị địch tra tấn tàn bạo đến tàn tật, vẫn một lòng hướng về cách mạng, về miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ta không thể quên những anh hùng lực lượng vũ trang nhân nhân quân giải phóng miền Nam Việt Nam như Phan Thị Ràng (Chị Sứ) qua tác phẩm Hòn Đất của nhà văn Anh Đức, chị Nguyễn Thị Út (Út Tịch) với tuyên bố “Còn cái lai quần cũng đánh”, anh hùng Tạ Thị Kiều, mang tấm lòng của nhân dân miền Nam ra với Bác Hồ, Nữ tướng Nguyễn Thị Định với đội quân tóc dài huyền thoại trong Đồng khởi Bến Tre. Ta không thể quên nụ cười Võ Thị Thắng, trước tòa án Việt Nam Cộng hòa vẫn ngạo nghễ: “Liệu chính quyền các ông còn tồn tại bao lâu mà kết án tôi 20 năm khổ sai”, đã thành biểu tượng cho khí phách anh hùng của thế hệ trẻ Việt Nam. Bà Nguyễn Thị Bình với kỳ tích ngoại giao Việt Nam trong thế kỷ XX là Hiệp định Paris, mở đường tới thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, phong trào thi đua yêu nước được đẩy cao với phong trào “Ba đảm đang” của phụ nữ miền Bắc, đã góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại của không lực Hoa Kỳ và chi viện tiền tuyến lớn miền Nam. Có lẽ không ai quên mẹ Suốt, người mẹ đã tần tảo chèo đò đưa cán bộ qua sông bất kể mưa bom, bão đạn của kể thù. Có lẽ không ai không biết những nữ anh hùng Ngô Thị Tuyển, La Thị Tám, Đội nữ dân quân Ngư Thủy (Quảng Bình)… đã trở thành biểu tượng anh hùng của phụ nữ Việt Nam trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Bước vào thời kỳ cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới đất nước, phụ nữ Việt Nam tiếp tục đóng góp to lớn trong xây dựng và phát triển kinh tế, trong nghiên cứu khoa học và nhiều lĩnh vực khác. Hàng chục cuộc vận động của phụ nữ và có sự tham gia của phụ nữa đã đạt thành tựu lớn. Có lẽ không có một lĩnh vực nào không có sự đóng góp của phụ nữ. Từ lao động sản xuất, chiến đấu, học tập và nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh đến chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cái. Đổi mới và hội nhập đã giúp chị em thực hiện bình đẳng giới hơn bao giờ hết để chứng tỏ, dù trong hoàn cảnh nào, phụ nữ Việt Nam luôn xứng đáng tiếp nối truyền thống anh hùng, bất khuất, trung hậu, đam đang của phụ nữ Việt trong lịch sử cũng như trong thời kỳ đổi mới, hội nhập hiện nay.

Vũ Trung Kiên