LỄ OK OM BOK – NÉT ĐẸP TRONG VĂN HÓA KHƠME NAM BỘ

Lễ Ok Om Bok, tiếng Khơme có nghĩa là Đút cốm dẹt, còn có tên khác là Lễ Cúng Trăng (vì lễ tổ chức vào đúng hôm trăng rằm và bắt đầu từ khi trăng lên) của người Khơme Nam Bộ sống ở các nơi Cần Thơ, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang.

Xuất phát từ một tín ngưỡng dân gian cho rằng mặt trăng là thần bảo vệ mùa màng, người Khơme hằng năm cứ đến ngày rằm tháng 12 theo Phật lịch, tương ứng tháng 10 âm lịch, tổ chức lễ Ok Om Bok để tỏ lòng biết ơn vị thần đã làm cho mùa màng tốt tươi, mang lại lương thực dồi dào cho con người, lấy những hạt cốm dẹt đút vào miệng trẻ con để “lấy phước”.

Vào lúc này thời tiết bắt đầu khô ráo, gió chướng thổi nhẹ, lúa ngoài đồng bắt đầu chín lốm đốm. Đặc biệt với tuổi trẻ, vào những ngày này trai gái thường rủ nhau đi chơi, ngắm trăng, tâm sự và tỏ tình.

Để chuẩn bị cho đêm Lễ cúng trăng người ta đào lỗ trước sân nhà, hay sân chùa (nơi dự định cúng lễ) để chôn hai cây trụ tre hay tầm vông, bên trên có một cây xà ngang dài khoảng 3 mét, giống như một cổng chào có trang trí hoa lá. Dưới cổng có kê một chiếc bàn phủ vải đẹp, bên trên để một lọ hoa, nhang, đèn và các thức cúng gồm có trái cây như chuối, bưởi, cam, thơm cùng các loại củ có chất bột như khoai lang, khoai mì, khoai môn và bánh kẹo; đặc biệt là món cốm dẹt được chế biến từ những bông nếp vừa chín đầu mùa lấy từ ngoài đồng về. Mọi người từ già đến trẻ đều ăn mặc đẹp, dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa để đón trăng.

Buổi tối, khi ông trăng rằm to như chiếc đĩa màu vàng đỏ vừa nhô lên khỏi ngọn cây, thì dân chúng đã tề tựu đông đủ tại nơi khuôn viên chùa, hay ở nơi sân nhà, hoặc nhiều nhà cùng tập hợp nhau lại tại một địa điểm rộng rãi, thuận lợi nhất để chuẩn bị lễ cúng. Bà con đến dự lễ được mời ngồi trên những chiếc chiếu hay tấm đệm trải sẵn trên đất, hai tay cung kính chắp lại để ra đằng trước mặt hướng về phía mặt trăng đang lên. Một cụ già làm chủ lễ đứng ra đọc lời khấn, nói lên lòng biết ơn của con người đối với thần, xin thần tiếp nhận những lễ vật và cầu mong trong những ngày tháng tới, thần Trăng sẽ đem lại cho mọi nhà, mọi người những niềm vui mới: sức khỏe, thời tiết tốt đẹp, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống thái bình, no ấm.

                  

Các vị sư và Achar tiến hành lễ thức cúng trăng.

Lễ xong, khi tuần hương vừa cháy hết, người già gọi các em bé lại ngồi xếp thành hàng, hai tay chắp lại, rồi từ từ bốc những nhúm cốm đút vào miệng từng em một, tay kia đấm nhè nhẹ vào sau lưng, và hỏi:

  • Các cháu ngoan của ông (hoặc bà) năm nay muốn gì?

Câu trả lời của các cháu rất đa dạng. Có cháu mong ước có nhiều vàng bạc, châu báu, trâu bò. Có cháu mong sau này có vợ đẹp, giàu sang. Có cháu muốn được ăn no, được học hành,…

Năm nào, những câu trả lời của đám trẻ suôn sẻ, lễ độ, rành rọt thì người lớn coi như đó là tín hiệu của điềm lành đối với dân trong sóc, trong xã vào những ngày sắp đến. Kế đó, mọi người hạ mâm cúng, cùng nhau hưởng lễ vật, vừa ăn vừa kể chuyện sản xuất, chuyện làng xóm thay đổi…Trẻ em, thành niên thì vui chơi, múa hát. Nếu có khách từ xa đến dự, chủ nhà gói một ít cốm dẹt để làm quà.

Các vị Achar đút cốm dẹp cho trẻ em.

Ở nơi thị tứ, thị trấn, vào đêm lễ này, người ta đổ ra đường đông nghẹt để vui Lễ Cúng Trăng. Tham gia lễ này, không chỉ có người Khơme mà còn có đông đảo người Hoa, người Kinh cùng vui chung. Chỗ này tổ chức đấu võ, kéo co, chỗ kia biểu diễn văn nghệ như hát Dù kê, hát tập thể Romvông, Romxaravan, Lăm leo, A day…Những đêm văn nghệ, vui chơi diễn ra trong tiếng nhạc, tiếng trống rộn ràng, dồn dập, có khi kéo dài trắng đêm, cuốn hút hàng ngàn người xem.

Trong khi đó, ở các ngôi chùa Khơme, người ta tổ chức thả đèn nước trên sông, rạch, hoặc ao hồ và thả đèn giấy bay theo gió. Đèn nước được kết bằng thân bẹ chuối trắng theo mô hình ngôi đền nhỏ, có trang trí hoa cờ, phướn, bên trong bày một ít lễ vật: trái cây, bánh kẹo, muối…Mở đầu, một vị sư thắp đèn cầy và nhang, rồi hướng dẫn mọi người đọc kinh tưởng nhớ đến đức Phật. Sau đó, người ta rước đèn ra bến nước, hoặc ao hồ gần đó, có đoàn múa xàdăm đi theo biểu diễn. Đến địa điểm đã định, những chiếc bè chuối có nhang đèn cháy sáng được đưa xuống nước và đẩy ra xa. Những chiếc đèn từ từ trôi theo dòng nước, trong khi tiếng hoan hô, cười nói của đám đông đứng trên bờ vẫn rộn lên không dứt. Theo quan niệm của người Khơme, tục thả đèn nước nhằm xua tan bóng tối, sự ô uế và buồn bã, giống như lễ tống ôn, tống gió của người Kinh, để chỉ còn lại sự bình yên, niềm vui và tình đoàn kết xóm làng.

Tóm lại, Lễ Cúng Trăng là một dạng lễ hội nông nghiệp, với những hy vọng điều lành, may mắn và hạnh phúc phản ánh được đặc tính, tâm lý chất phác và hồn nhiên của người nông dân Khơme Nam Bộ cùng những ước mơ bình dị: mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, mọi người ấm no, hạnh phúc.

 

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 12 năm 2022

Trang Ngọc Thắng

Phòng Truyền thông – Giáo dục – Quan hệ quốc tế

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Trần Văn Bính (Chủ biên) (2004), Văn hóa các dân tộc tây Nam Bộ – Thực trạng và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
  2. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  3. Thạch Phương, Lê Trung Vũ (1995), 60 lễ hội truyền thống Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.