* Đổi mới trong lựa chọn con đường cứu nước
Khi bàn về tư duy đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh không thể không nhắc tới thân phụ của Người: cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
Cụ Nguyễn Sinh Sắc là một nhà nho, bản thân cụ đỗ Phó bảng năm Tân Sửu, niên hiệu Thành Thái thứ 13 (năm 1901), thế nhưng cụ lại không hướng con trai của mình trau dồi thi thư, học hành đỗ đạt để làm quan như tư tưởng chung của những người thấm nhuần đạo Khổng. Ngược lại, cụ ủng hộ Nguyễn Tất Thành học tiếng Pháp khi đưa con trai của mình gửi cho người bạn là nhà giáo Phạm Ngọc Thọ (thân sinh của bác sĩ, Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch) ở Quy Nhơn (tỉnh Bình Định) và chỉ học mỗi môn tiếng Pháp.
Như vậy, cụ Nguyễn Sinh Sắc có thể đã hiểu chí con trai mình và ngầm ủng hộ. Việc học tiếng Pháp của Nguyễn Tất Thành rất quan trọng vì đây là điều kiện thuận lợi để Người đi sang phương Tây, mà trực tiếp là nước Pháp, đất nước đang đô hộ Việt Nam khi ấy.
Nguyễn Tất Thành rất khâm phục các bậc cha chú của mình như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám… nhưng Người lại không đồng tình với con đường cứu nước của các sĩ phu đáng kính ấy. Nước Pháp là quê hương của câu khẩu hiệu nổi tiếng “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”. Vì vậy, Người muốn tới tận nơi để xem ẩn đằng sau câu khẩu hiệu mĩ miều ấy là gì. Hiểu điều này sẽ rất dễ giải thích vì sao khi lần đầu tiên đặt chân lên đất Pháp, Người đã xin vào học trường thuộc địa của Pháp.
Louis Pasteur chẳng từng nói rằng: “Học vấn không có quê hương nhưng người học phải có Tổ quốc”. Đến nước Mỹ, trước tượng Nữ thần Tự do, Người đã không ngước nhìn lên như những người khác mà nhìn xuống chân tượng Nữ thần Tự do và ghi: “Ánh sáng trên đầu thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự do thì người da đen đang bị chà đạp; số phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?”.
Bến cảng Nhà Rồng (TP.HCM) – nơi cách đây 110 năm Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước
* Đổi mới trong tiếp thu, vận dụng Chủ nghĩa Mác – Lênin
Trong tác phẩm với tên gọi Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Và “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”, “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”.
Có phải chính tư duy độc lập, đổi mới và sáng tạo này của Nguyễn Ái Quốc mà Đại hội VI Quốc tế Cộng sản năm 1928 đã chỉ trích Nguyễn Ái Quốc? Tháng 7-1920, khi đọc được Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Người đã vui mừng đến phát khóc khi khẳng định đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta. Thế nhưng, Người cũng khẳng định rằng cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phải phù hợp với đặc điểm cách mạng Việt Nam.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, cả gia đình Sa Hoàng đã bị giết. Thế nhưng, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, cựu hoàng Bảo Đại đã được mời làm cố vấn tối cao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngài còn được giới thiệu ứng cử Quốc hội khóa I tại đơn vị bầu cử tỉnh Thanh Hóa (quê hương nhà Nguyễn).
* Đổi mới, sáng tạo trong phương pháp cách mạng
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Cách mạng muốn thắng lợi trước hết phải có Đảng lãnh đạo, nhưng Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III của Lênin. Trong Học thuyết về chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân của V.I.Lênin thì đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân. Thế nhưng, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, luận điểm này chỉ đúng với các nước phương Tây, khi giai cấp công nhân đã bước lên vũ đài chính trị với tư cách là một lực lượng chính trị độc lập, được lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin dẫn đường. Các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam khi ấy đang bị chủ nghĩa thực dân thống trị, nền kinh tế hết sức lạc hậu, què quặt, công nghiệp gần như chưa phát triển, giai cấp công nhân tuy đã ra đời và sống khá tập trung song còn nhỏ bé, chưa đại diện cho toàn bộ phong trào dân tộc.
Chính từ nhận thức đổi mới và sáng tạo ấy, Nguyễn Ái Quốc đã định hướng đúng đắn cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Giai cấp tư sản dân tộc ở các nước thuộc địa theo quan điểm của Đại hội VI Quốc tế Cộng sản là đối tượng mà giai cấp vô sản cần đánh đổ trong cách mạng dân tộc. Thế nhưng, khi thành lập Đảng đầu năm 1930, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghệ một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản bản xứ không có thế lực gì, ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được”; “Đảng tập hợp và lôi kéo phú nông, tư sản và tư sản bậc trung”.
Tháng 12-1920, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã phát biểu ủng hộ Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Ảnh: T.L
Cũng vậy, giai cấp địa chủ ở các nước thuộc địa, theo Đại hội VI Quốc tế Cộng sản, là giai cấp phải đánh đổ, thì trong cương lĩnh của Đảng đầu năm 1930 lại khẳng định: “Chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”; “Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập”.
Đối với tiểu tư sản, trí thức ở các nước thuộc địa, trong khi Đại hội VI Quốc tế Cộng sản ngăn rằng, không được liên minh với họ, thì trong cương lĩnh, những người thành lập Đảng lại khẳng định: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”…
Ngay sau khi về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam, với tư tưởng xuyên suốt là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sức mạnh của lòng dân và tập trung xây dựng lực lượng chính trị bằng tổ chức Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Đường lối của Mặt trận Việt Minh là quy tụ tất cả các giới đồng bào vì mục tiêu chung là đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Đó chính là lý do mà năm 1945, khi Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ có hơn 5 ngàn đảng viên nhưng đã lãnh đạo nhân dân làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại. Đó thật sự là cuộc cách mạng kết tinh sức mạnh của nhân dân dưới sự lãnh đạo bằng đường lối đúng đắn từ tư duy đổi mới, sáng tạo của Hồ Chí Minh.
* Tư duy đổi mới trong các lĩnh vực đời sống chính trị – xã hội
Là một nhà lãnh đạo với tư duy đổi mới và thực hành, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm tới những vấn đề cụ thể, thiết thực. Đọc các bài viết, bài nói của Người, chúng ta thấy rõ một tư duy nổi bật là hầu như tất cả chẳng hề theo một khuôn mẫu sẵn có nào. Những gì phức tạp thì Người làm cho nó đơn giản đi, những gì đã đơn giản rồi thì Người làm cho nó càng đơn giản hơn nữa.
Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lo lắng đến sự tha hóa của đội ngũ cán bộ, đảng viên khi Đảng trở thành đảng cầm quyền. Trong thư gửi UBND các kỳ, huyện, tỉnh và làng cuối năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã liệt kê ra rất nhiều biểu hiện tha hóa của đội ngũ cán bộ, đảng viên mà soi chiếu với hôm nay chúng ta phải giật mình về nhãn quan chính trị, mẫn cảm và tầm dự báo chiến lược sâu xa của người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng tự do, hạnh phúc là thước đo giá trị của độc lập dân tộc. Vì vậy, phải thực hiện làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành. Và “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Từ tác phẩm Đường cách mệnh năm 1927, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói đến tư tưởng kinh tế mới của Lênin. Người cũng đã thấy vai trò của giới công thương trong phát triển kinh tế từ rất sớm. Chỉ một ngày sau Tuyên ngôn Độc lập, trong lịch tiếp chuyện đại biểu các đoàn thể, Người xếp thương giới ở hàng thứ năm, trước cả công chức, nông hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có tư tưởng mới về văn hóa từ rất sớm. Năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở vào giai đoạn gay go quyết liệt, Người đã dành công sức viết tác phẩm Đời sống mới với những tư tưởng đặc biệt mới: “Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm. Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”.
Cũng trong năm ấy, để giáo dục cán bộ, đảng viên, ngăn ngừa những biểu hiện tha hóa trong đội ngũ, Người đã viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (tháng 10-1947) với rất nhiều nội dung chứa đựng tư tưởng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền một cách toàn diện, sâu sắc và vẫn mang tính thời sự nóng hổi trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến việc trồng người mà Người còn đặc biệt quan tâm đến việc trồng cây, bảo vệ môi trường. Hơn 60 năm trước, khi ô nhiễm môi trường chưa trở thành vấn đề bức xúc như hiện nay, Người đã phát động Tết trồng cây với mục đích để bảo vệ môi trường sống. Trong Di chúc để lại, Người yêu cầu thi hài Người phải được hỏa thiêu để góp phần tiết kiệm đất dành cho sản xuất nông nghiệp và bảo vệ môi trường.
TS Vũ Trung Kiên
(Học viện Chính trị khu vực 2)