Trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, phụ nữ đã chiến đấu rất kiên cường. Những người mẹ, người vợ, người chị đã làm nên những tấm gương trung dũng tuyệt vời. Và trên trận địa ngục tù, hàng vạn phụ nữ đã nối tiếp nhau đấu tranh một mất một còn, bất khuất trước quân thù, đối mặt với mọi thứ cực hình, tra tấn và hy sinh anh dũng.
Quá trình đấu tranh chống xâm lược của dân tộc ta đã trải qua nhiều thế hệ, từ phong trào Cần Vương Cần Vương, Đông Du đến cuộc khởi nghĩa Yên Bái và nhiều phong trào nổi dậy chống thực dân Pháp, tất cả đều không thành công. Ở Nam Bộ, sau khi Thiên Địa Hội tan rã vì không có phương hướng đấu tranh thì Thanh niên cách mạng đồng chí hội ra đời. Những cuộc vận động, không phân biệt già trẻ, trai gái, tất cả các giới sĩ, công, nông, thương… liên kết lại, cùng nhau vì mục đích chung. Mặc dù thực dân Pháp thực hiện một chính sách cai trị vô cùng tàn bạo, dã man nhưng những người phụ nữ Nam Bộ đã tham gia đấu tranh và bị bắt bớ, đánh đập, tù đày nhưng vẫn quyết tâm giữ vững khí tiết của một chiến sĩ cách mạng. Và người nữ tù chính trị vào bót Catinat đầu tiên là bà Bảo Lương tức Nguyễn Trung Nguyệt.
Bà Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt sinh ngày 5/2/1909 tại làng Bình Đại (tỉnh Mỹ Tho). Cha mẹ đặt tên Trung Nguyệt với niềm mong ước khi lớn lên bà sẽ là một cô gái xinh đẹp, tiết hạnh sáng rỡ như vầng trăng đêm rằm. Năm 12 tuổi, gia đình dời về Rạch Giá lập nghiệp. Cuộc sống cơ cực trôi qua nhờ sự tháo vát, thương khó của cha mẹ, bà trở thành số ít bé gái được học Hán văn với ông ngoại và cha, học chữ quốc ngữ với người chú. Nhờ sớm có khiếu văn chương nên từ nhỏ bà đã xướng họa thơ cùng cha trong những lúc nhàn tản. Năm 14 tuổi, bà đã nổi tiếng hay chữ, giỏi thơ phú trong vùng. Ở tuổi 16, tên tuổi bà đã vượt ra khỏi tỉnh lẻ, được giới thiệu và đăng thơ trên những tờ báo lớn ở Sài Gòn.
Trong hồi ký, bà Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt viết “Theo tháng năm khôn lớn, không ai trực tiếp nói với tôi, nhưng từng câu chuyện, từng người tới lui trong nhà cha tôi đều như những người thầy dạy cho tôi biết đất nước đang bị ách nô lệ và các bậc ấy cũng thảo luận về những phương cách, đường lối để cứu nước Mười sáu tuổi đầu, tôi bắt đầu ôm ấp mộng trực tiếp tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc cởi xích xiềng nô lệ cho nhân dân. Càng ngày tôi càng ý thức về nạn cường hào ác bá và cảnh khổ cực của đồng bào”.
Sau khi tham gia hoạt động cách mạng, lấy bí danh Bảo Lương (nghĩa là “Giữ gìn trung thực”) và trở thành một trong những nữ hội viên đầu tiên của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Năm 17 tuổi, bà được tổ chức bố trí giả trai trốn xuống tàu sang Quảng Châu dự lớp học của đồng chí Nguyễn Ái Quốc tổ chức. Sau đó, bà về nước hoạt động hơn một năm thì bị bắt trong vụ án đường Barbier và bị bắt giam vào bót Catinat vào ngày 13/7/1929. Bà viết “Bây giờ ba anh em tôi vào đây, kể từ ngày 13/7/1929 để thực sự nếm cái vị đắng cay mà bấy lâu nay biết bao người đã trải qua, có người bị tra tấn đến chết luôn, trong tòa nhà bên ngoài như một dinh thự này…Tôi ngồi bó gối dưới nền gạch, âm thầm lo bảo vệ danh dự và trinh tiết của người con gái bằng bất cứ giá nào”
Khi bị bắt giam vào bót Catinat, bà bị còng cả chân tay bỏ nằm trong phòng điều tra nhưng chưa bị chúng đánh đập. Chúng đang còn bận tra tấn các người cùng bị bắt với bà trong vụ án đường Barbier Có lẽ chúng cố ý cho bà nghe những tiếng rên la của những người đồng đội. Bà kể về những bữa cơm ở bót “Cơm ở bót là thứ cơm gạo tấm loại lúa Chánh Hưng. Loại lúa này trồng ở miền đất cao, hạt gạo cứng màu hồng, nhà thầu không sàng sẩy nên sỏi sạn rất nhiều. Loại gạo này nấu nhiều nước, nhão nhoẹt vẫn cứng, cơm lại có nhiều thóc, gạo không được vo nên mùi nghe chua chua như mùi bột ẩm hoặc cháo heo thiu. Còn tép thì tanh không thể tả, tưởng như họ mang từ chợ về không cần rửa lại, bỏ vô nồi rang không ra rang, kho không ra kho. Cái tô đá rạn nhiều đường cùng đôi đũa tre ngả màu vàng sậm có lẽ thấm cái mùi này đã lâu. Tô cơm ai trông thấy và ngửi mùi cũng phải né nếu không muốn bị nôn”. Đó là bữa cơm của người sa chân vào hang hùm của bọn thực dân Pháp – bót Catinat.
Sau khi điều tra và không khai thác được thông tin gì ở bà, chúng bắt đầu tra tấn dã man “Tôi vừa nằm sấp xuống thì cò Bazin đạp giày tây lên xương sống tôi, tay mặt hắn quất roi mây xuống, những lằn roi nghệ thuật đánh khuyết vào một chỗ… Nhưng khi nghe đối tượng im lặng thì chúng phát sùng. Chúng nắm hai cánh tay tôi chập lại, trong khi tôi vẫn đang nằm sấp và kéo tôi lên. Tôi nghe nhói đau trong ngực và dường như giấc ngủ mê đang đến với tôi… Nửa đêm hôm đó, tôi tỉnh trong cơn mê, mơ màng nghe như có người ngồi gần bên đang lau miệng cho tôi. Nghe nói máu ra ướt gạch, tôi nghiêng mình dòm: máu gì bê bết trên gạch như là huyết gà…Những ngày bị tra tấn ở bót, còng chân mấy ngày trước rộng tôi có thể tự rút chân ra được, nay chật cứng cọ vào mấy chỗ sưng trầy, đau không dám nhúc nhích”.
Mặc dù da thịt nát tan khi bị tra tấn nhưng bà đã không làm tổn thương đến đồng đội như lời bà viết:
“Còng khua rổn rảng suốt đêm trường!
Nằm chẳng yên cho, đứng lại vương!
Thịt nát, tâm can này dễ nát
Kiếp này mất nước, kiếp tai ương
Máu chảy từ đầu suốt đến chân,
Oán nào bằng oán thực dân hơn,
Cường quyền khó vững trên lầu cát,
Vì mãi xây thêm nấc oán hờn.”
Không chỉ bị tra tấn, mà khi ở bót Catinat bà còn phải chứng kiến cảnh đồng đội bị tra tấn “Tôi gượng đứng lên, lại ngồi xuống, bị còng vướng nên cũng không đứng được bao lâu. Tuy nhiên, dầu đứng hay ngồi cũng không trấn tĩnh được nỗi đau xót bởi những tiếng kêu não nùng, rồi tiếng thở hồng hộc, tiếng đánh người thình thịch. Những âm thanh đau đớn thê thảm ấy kéo dài suốt cả ngày đêm. Dứt giọng nói của người này đến giọng người khác! Cái tiếng tra tấn đánh khảo tàn khốc của bọn cai trị người Pháp đối với người dân Việt Nam nghe càng tức gan, bừng phổi. Ai muốn sống sót qua cửa ngục này ắt phải ngày đêm lo trừ khử nó…
Từ những gì đã trải qua khi bị giam ở bót Catinat, bà viết “Dưới thời thực dân Pháp, không có điều gì người dân lành kinh khiếp hơn là vô bót, nhất lại là vô bót Catinat, nơi mà chỉ nghe đến cái tên thôi cũng đủ toát mồ hôi lạnh. Đến chuyện bị nhốt ở bót đó và chịu mọi “thủ tục” về phần thể xác, có lẽ phải gọi là cửa ngục thứ mười ở trần gian, mặc dầu chưa có người sống nào thấy được cửa ngục thứ mười nơi âm phủ… Nước mắm đổ vào lỗ mũi thì sặc máu, cho điện giật thì sau trở thành bại xụi. Đi tàu bay thì đứt gân máu bất tử, còn lộn mề gà thì còn chi là con người. Uốn đầu sát gót rồi đánh lên ngực thì trâu cũng phải rống huống chi người…”
Ảnh tư liệu: Bà Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt bị giải ra tòa năm 1929
Sau khi bị tra tấn, chúng giải bà qua khám lớn Sài Gòn. Bà viết “Ở bót mới gần một tháng mà ra đường bóng nắng đã chói lòa mắt, bước đi lựng khựng. Mấy anh bị còng, hai người dính tay nhau đi có cặp, chỉ có tôi là gái nên đi một mình sau cùng, không còng chung với ai. Từ bót tới khám là bao xa, qua những con đường nào, điều đó không đáng để ý. Điều cần thiết là gặp nhau để nhìn thấy cho đủ mặt, chưa người nào bị chết là được rồi”. “Trong lúc bót Catinat được thiết lập ngay trung tâm Sài Gòn thì xung quanh có hàng chuc bót khác của giặc chuyên bắt bớ và đánh đập, được coi như một loại vệ tinh của bót chính Catinat. Hàng ngày, sau khi bị bắt bớ đánh đập, thậm chí giam giữ một thời gian hoặc đưa thẳng về khám lớn hoặc đưa qua bót Catina để điều tra bổ túc”.
Địa ngục trần gian – bót Catinat với những đọa đày nghiệt ngã nhưng vượt lên những đòn tra tấn dã man, người con gái Nam Bộ – Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt trở nên đầy khí phách, dũng cảm. Thời gian ở bót Catinat tuy bị tra tấn rất dã man nhưng bà vẫn xứng đáng là người đã bảo vệ lý tưởng và danh dự của người cách mạng. Bà Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt được ra tù năm 1937, bà đã làm tròn vai trò tiên phong đáng khâm phục của người phụ nữ một thời dám bức ra khỏi bốn bức tường lễ giáo phong kiến, dấn thân cho lý tưởng cách mạng, đem tư tưởng cách mạng vào nhà máy, xóm lao động và cả ở trong tù…
Bà Phạm Thị Diệu
Phó Giám đốc Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ
Tài liệu tham khảo:
- Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt, Vân Trang (1996), Người con gái Nam Bộ, Nhà xuất bản Phụ nữ.
- Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ – Hàn Song Thanh (1995), Những ngày tù ngục, Sở Văn hóa và Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh.
- Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ (2015), Lịch sử Phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, NXB Chính trị quốc gia.
- https://thanhnien.vn/nu-danh-xu-nam-ky-thieu-nu-cai-trang-nam-di-lam-cach-mang-185453101.htm