GIỚI THIỆU SÁCH: NHỮNG NGƯỜI CON SÀI GÒN TRONG “ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN” CÔN ĐẢO

Sách Những người con Sài Gòn trong ‘Địa ngục trần gian’ Côn Đảo có thể được xem là một cuốn sử thi bi tráng, khắc họa lại 113 năm lịch sử đấu tranh kiên cường của các chiến sĩ yêu nước tại nhà tù Côn Đảo (1862-1975). Nơi đây được mệnh danh là “địa ngục trần gian” bởi chế độ lao tù hà khắc và những đòn tra tấn dã man.

Côn Đảo – vùng đất bị biến thành địa ngục bởi chế độ lao tù hà khắc, bởi những đòn roi tàn bạo, chuồng cọp tối tăm, cơm thiu gạo mốc, muối mục mắm giòi… Thế nhưng, chính giữa nơi tăm tối nhất ấy lại bừng sáng tinh thần kiên trung. Người tù Côn Đảo không chỉ chống ly khai, chống xé cờ Tổ quốc, mà còn đấu tranh giữ khí tiết cộng sản, bảo vệ đồng chí, giác ngộ những người lầm đường, xây dựng tổ chức, biến nhà tù thành trường học cách mạng.

Đối với những chiến sĩ cách mạng, Côn Đảo thực sự mang ý nghĩa thiêng liêng của một vùng đất thánh: bàn thờ Tổ quốc, là trường học tổng hợp, nơi trui rèn, thử thách lòng yêu nước – khí tiết cách mạng, nơi đào tạo những cán bộ trung kiên, có kiến thức cho cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.

Đối với các chiến sĩ, Côn Đảo không chỉ là nhà ngục khổ sai, mà còn là “bàn thờ Tổ quốc”, là “trường học lớn” hun đúc ý chí, rèn giũa nhân cách, đào tạo lớp lớp cán bộ trung kiên cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nơi đây, nhiều người đã ngã xuống anh dũng, nhiều người trở về trở thành lãnh tụ, những nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ – góp phần đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi hoàn toàn.

Cuốn sách gồm 4 phần chính:

Chương 1: Côn Đảo – 113 năm lịch sử nhà tù: Giới thiệu vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, lịch sử hình thành và 113 năm tồn tại của “địa ngục trần gian”.

Côn Đảo là một quần đảo có tầm quan trọng về địa lý, lịch sử, kinh tế và quân sự; nằm ở phía Đông Nam nước ta. Các tài liệu trước đây đều ghi rằng ở quần đảo gồm 14 hòn đảo lớn nhỏ. Hiện nay, các văn kiện mới nhất đã xác lập chủ quyền lãnh thổ thêm hai hòn đảo nhỏ (đảo Hòn Anh và đảo Hòn Em). Như thế quần đảo gồm 16 hải đảo với tổng diện tích hơn 77,28 km2.

Trên bản đồ địa lý, Côn Đảo có hình thể rất giống một con trâu, không phải trâu nước mà là loại trâu cày ruộng của nhà nông. Lưng trâu xoay về phía cửa sông Hậu. Bụng là vùng mặt tiền của thị trấn, nhìn ra biển Đông. Cổ là vùng Cỏ Ống, giáp vịnh Đông Bắc. Đầu là vùng Đầm Tre. Hai chân trước là mũi Cỏ Ống và mũi Lò Vôi. Hai chân sau vươn ra mũi Cá Mập và hòn Bà.

Về địa chất, Côn Đảo được xây trên một lớp nền móng nham thạch vững chắc. Có giả thuyết cho rằng xưa kia, Côn Đảo là một phần của Trường Sơn, sau bị địa chấn làm tách rời ra. Núi chiếm 88,4% diện tích, phần lớn là núi đá. Những ngọn núi cao nhất đều nằm trên hòn Côn Lôn.

Côn Đảo không có sông, chỉ có hai con suối nhỏ. Một con suối chảy từ chân núi Chúa ra mũi Lò Vôi. Một dòng chảy lượn quanh mặt sau thị trấn rồi đổ ra bờ biển ở vùng An Hội. Hai con suối này không đủ nước cung cấp cho sinh hoạt, lại bị nhiễm mặn. Nguồn nước ngọt chủ yếu là các giếng đào thủ công và một hồ nước lớn (hồ Quang Trung). Trên cao nguyên sở Vani cũ có một miệng giếng thiên nhiên chứa được khá nhiều nước mưa. Đây là vết tích của một miệng núi lửa đã yên nghỉ.

Đất trồng trọt chiếm khoảng 3,2% diện tích tự nhiên, trong đó đất thổ cư khoảng 100 hecta, nhà tù chiếm gần 30 hecta (thời Pháp 22,024 hecta và thời Mỹ tăng thêm 6,9 hecta).

Côn Đảo chịu ảnh hưởng của đại dương, khí hậu mát mẻ nhờ nhiều gió. Gió mùa Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 9. Gió mùa Đông Bắc từ tháng 10 đến tháng 4, thỉnh thoảng gió giật cấp 6, cấp 7 gây bão tố không chỉ nguy hiểm trên mặt biển mà đôi khi tàn phá nhà cửa trên bờ. Một số công thự ở Côn Đảo từ thời Pháp để lại được xây dựng kiên cố với những bức tường bằng gạch, đá có nơi dày đến 0,4m, gọi là “tường chịu gió” và gió ấy gọi là gió chướng.

Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa trung bình là 2.200mm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau, khí hậu mát mẻ, nhiệt độ từ 27°C đến 28°C, có lúc lên quá 30°C. Khí hậu dễ chịu này là một ưu đãi duy nhất mà hình như thiên nhiên đã dành tặng cho người tù ở Côn Đảo, kể cả những ngọn gió chướng. Chính trong mùa gió này, người tù thường lợi dụng hướng gió để thả bè vượt ngục. May thì về được với đất liền, rủi có chết trên mặt biển thì cũng coi như giải thoát khỏi một kiếp người đày đọa.

Nhà tù Côn Đảo thuộc huyện Côn Đảo (nay là Đặc khu Côn Đảo), tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (nay trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh) với vai trò là một đơn vị hành chính đặc biệt. Thực dân Pháp xây dựng nhà tù Côn Đảo bắt đầu từ năm 1862, sau khi Pháp chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam Bộ. Nhà tù Côn Đảo tồn tại 113 năm (1862 – 1975) với 53 đời chúa đảo thay nhau cai trị, trong đó có 39 chúa đảo là người Pháp (92 năm) và 14 chúa đảo là người Việt Nam (21 năm). Trong lịch sử, chính quyền thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã cho xây dựng 127 phòng giam, 42 xà lim và 504 phòng giam biệt lập “chuồng cọp” tại khu vực Côn Đảo. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất (năm 1975), chức năng của hệ thống nhà tù ở Côn Đảo bị giải thể. Năm 1979, khu Di tích Lịch sử Côn Đảo đã được Bộ Văn hoá – Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích Quốc gia, với 17 di tích thành phần.

Nhà tù Côn Đảo là một Di tích đặc biệt (Di tích Nhà tù). Đây là nơi tập trung nhiều nhất hệ thống cai trị tù khét tiếng của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, điển hình về chế độ cưỡng bức, giam cầm, hành hạ và tàn sát các chiến sĩ cách mạng, tù nhân lao động khổ sai đến kiệt sức; là nơi mà kẻ thù hung bạo phải run sợ trước khí phách, khí tiết cách mạng và niềm lạc quan của những người tù yêu nước.

Nhà tù Côn Đảo cũng là “Trường học Cộng sản” rèn luyện phẩm chất, ý chí của các chiến sĩ cộng sản trên trận tuyến nhà tù, đồng thời là nơi giáo dục truyền thống đấu tranh anh dũng, lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của các thế hệ hoạt động cách mạng tiền bối cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.

Với những giá trị lịch sử, văn hoá và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích Lịch sử Nhà tù Côn Đảo là Di tích Quốc gia đặc biệt (Quyết định số 548/QĐ-TTg, ngày 10 – 05 – 2012).

Năm 2025, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được sáp nhập vào Thành phố Hồ Chí Minh theo Nghị quyết số 202/2025/QH15, trong đó Côn Đảo được nâng cấp thành đặc khu kinh tế trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh mới. Quá trình này không chỉ đánh dấu bước ngoặt trong quản lý hành chính mà còn mở ra cơ hội để đặc khu Côn Đảo phát triển thành một trung tâm du lịch sinh thái và kinh tế biển tầm cỡ quốc tế. Với sự đầu tư chiến lược, Côn Đảo đang được định hình để trở thành biểu tượng của sự phát triển bền vững.

Chương 2: Đấu tranh đòi quyền sống: Khắc họa cuộc sống khổ sai và những hình thức đấu tranh bền bỉ, từ tuyệt thực, vượt ngục, đến xây dựng tổ chức Đảng trong tù – biến ngục tù thành trường học cộng sản.

Tù chính trị Côn Đảo thời kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như chống đế quốc Mỹ không chỉ đấu tranh chống lại chế độ nhà tù dã man, tàn bạo của kẻ thù để bảo vệ sinh mạng, đòi hỏi cải thiện chế độ lao tù; vượt ngục, chống vô hiệu hoá người cách mạng… mà phải xây dựng tổ chức Đảng, tổ chức của những người tù yêu nước để hướng người tù chính trị vào nhiệm vụ chủ yếu là đấu tranh chống chính sách cực đoan, tàn bạo của Mỹ – ngụy, bảo vệ khí tiết, bảo vệ lý tưởng cộng sản, bảo vệ nhân cách và đạo lý con người Việt Nam.

Nhà tù Côn Đảo được thực dân Pháp xây dựng năm 1862 nhằm giam cầm những người Việt Nam yêu nước, nơi đây được xem như là một “địa ngục trần gian”. Đối với các chiến sĩ cách mạng, nhà tù chỉ giam hãm được thân thể tù nhân nhưng không thể giam cầm và kiểm soát được ý chí cách mạng, lòng trung kiên của người cộng sản. Họ đã biến nhà tù thành trường học lý luận cách mạng, trường học văn hoá, là nơi học tập, tu dưỡng và rèn luyện phẩm chất đạo đức của người cộng sản yêu nước. Lớp cộng sản đầu tiên bị đày ra Côn Đảo năm 1929 – 1930 đã thống nhất với nhau là nơi nào có người cộng sản là nơi đó có tổ chức Đảng để giáo dục đảng viên, giác ngộ quần chúng và lãnh đạo đấu tranh. Chi bộ Đảng trong nhà tù Côn Đảo được thành lập năm 1932 do đồng chí Nguyễn Hới làm Bí thư Chi bộ đầu tiên.

Đã có những năm tháng nhà tù biến thành trường học. Sau những bức tường kiên cố, ngột ngạt, dưới bóng đèn lòe nhòe và ánh trăng biển thật sáng, những lớp học đầu tiên được thành lập, thầy và trò mải mê trò chuyện, trao đổi với nhau đến tận đêm khuya. Đó là nơi không chỉ trui rèn ý thức, sức mạnh mà còn là nơi nâng cao trình độ và tư tưởng chính trị cho những người tù yêu nước.

Tuyệt thực là hình thức đấu tranh âm thầm nhưng quyết liệt và có thể dẫn đến sự hy sinh của rất nhiều người, là một trong những hình thức đấu tranh cao nhất của các tập thể tù chính trị nhằm đòi hỏi các quyền lợi dân sinh, dân chủ mà các hình thức đấu tranh khác chưa đạt được. Tuyệt thực đôi khi chỉ ở một phòng, một trại, nhưng cũng có khi toàn trại – nhiều trại liên hoàn cùng hưởng ứng và hỗ trợ nhau thành phong trào.

Những ngày tù ngục là một chuyên đề lớn trong lịch sử đấu tranh cách mạng của phụ nữ Việt Nam nói chung và phụ nữ Nam Bộ nói riêng. Đó là một điểm son, một ánh hồng chói lọi tô đậm thêm sắc đỏ của màu cờ Tổ quốc. Trong toàn bộ các cuộc đấu tranh trong tù, không những chỉ có đòn roi, tra tấn, nhục hình, chết chóc, hy sinh… mà còn có cả sức đề kháng mãnh liệt dù trong bất cứ tình huống nào. Và “vượt ngục” chính là một nét vô cùng độc đáo và sinh động mà các chị phụ nữ của chúng ta đã để lại một dấu ấn đậm nét trong lịch sử đấu tranh của các nhà tù Mỹ – ngụy ở miền Nam.

Văn nghệ là món ăn tinh thần cho những tù nhân yêu nước. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Thanh niên Xung phong có phong trào “Tiếng hát át tiếng bom”, còn tại nhà tù Mỹ – ngụy, anh chị em lấy “Tiếng hát át tiếng gông xiềng”. Văn nghệ trong nhà tù đã âm thầm tạo nên niềm vui, lẽ sống, củng cố, động viên tinh thần chiến đấu, giữ vững niềm tin, gắn bó tình đoàn kết đấu tranh vượt qua biết bao gian nan thử thách nhằm chống lại kẻ thù thâm độc bạo tàn và bảo vệ khí tiết cách mạng. Văn nghệ trong nhà tù rất phong phú và đa dạng với đủ các loại hình như: thơ, ca, hò, vè, tuồng, kịch, múa, chèo… Ngoài những tác phẩm cũ được các thế hệ tù nhân truyền lại, biên soạn lại, còn có những sáng tác mới được ra đời từ cuộc sống và quá trình đấu tranh của các tù chính trị.

Chương 3: Những người con Sài Gòn trong “địa ngục trần gian”: Ghi dấu sự hy sinh của những người con ưu tú của Sài Gòn – Thành phố anh hùng, những con người đã hòa máu mình vào sự sống còn của non sông đất nước.

Trong 113 năm đặt ách thống trị, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã biến Côn Đảo thành “địa ngục trần gian” với hơn 20.000 người phải bỏ mạng trên mảnh đất linh thiêng này, nhưng trong nghĩa trang chỉ có 1.922 ngôi mộ, trong đó chỉ có 714 ngôi mộ còn tên. Đó chỉ là một phần rất nhỏ so với những gì đã xảy ra trong nhà tù khủng khiếp này. Bao nhiêu hài cốt, tro xương của người tù còn vương vãi bên ngoài các nấm mộ ở Hàng Dương, Hàng Keo và ở nghĩa địa đầu tiên – nơi vùi dập thi hài tù nhân đã tan biến vào đất cát, cỏ cây ở Côn Đảo hay đã tan biến vào đại dương… là một nỗi đau chung của cả dân tộc và nỗi đau đó cứ lớn dần theo năm tháng…

Trong hơn 20.000 người đã bỏ mình ngoài Côn Đảo, không ít người sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn, ở khắp các vùng miền trên cả nước vì sinh kế, vì chiến tranh đã trôi dạt về vùng đất này và trở thành con dân của Sài Gòn – vì Sài Gòn – cùng Sài Gòn không tiếc máu xương chiến đấu để bảo vệ và gìn giữ sự sống còn của Sài Gòn, là máu, là thịt, là sự sống còn của non sông đất nước.

Những người con của Sài Gòn dù đã mất hay còn sống đều thể hiện bản lĩnh của người chiến sĩ cộng sản – bản chất anh hùng của một dân tộc anh hùng. Những người con Sài Gòn trong “Địa ngục trần gian” Côn Đảo là những người như thế.

Chương 4: Những ngày chấm dứt địa ngục trần gian: Kể lại những tháng ngày đấu tranh quyết liệt cho đến đại thắng mùa Xuân 1975, chấm dứt ách thống trị và khép lại 113 năm địa ngục nơi Côn Lôn.

Một thế kỷ rưỡi đã đi qua nhưng hai tiếng Côn Đảo, Côn Sơn hay Côn Lôn vẫn hằn sâu vào tiềm thức của mỗi thế hệ người Việt Nam như một “Địa ngục trần gian”, như một nơi mà ở đó chỉ có “xương trắng máu đào”, “đi dễ khó về, già đi bỏ xác, trẻ về khom lưng”…

Sau những cuộc đấu tranh mạnh mẽ của dư luận trong và ngoài nước, nhất là khi chuồng cọp bị phát giác và bị một làn sóng công phẫn lên án gắt gao, sức ép từ dư luận, nhất là dư luận từ nước Mỹ, của các phong trào yêu chuộng hoà bình và quần chúng tiến bộ, địch bắt buộc phải đưa lần lượt phụ nữ trở về đất liền và giam ở Chí Hoà, Thủ Đức, Tân Hiệp để tiếp tục tra tấn, hành hạ và trả thù.

Sự đấu tranh anh dũng, kiên cường chống lại sự tra tấn dã man của địch trong nhà tù thực dân, đế quốc đã góp phần cùng quân dân cả nước làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa nước nhà thống nhất, độc lập và đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Trong tiến trình lịch sử cận hiện đại Việt Nam, 113 năm lịch sử thị trấn ngục tù Côn Đảo là cuốn sử biên niên đồ sộ nhất, hùng vĩ nhất về cuộc chiến đấu bền bỉ, khốc liệt của những người Việt Nam yêu nước. Không một cuốn sử biên niên nào được ghi chép đầy đủ và trung thực đến thế bằng chính máu xương của lớp lớp thế hệ những chiến sĩ Việt Nam đã hiến dâng tinh hoa và sinh mạng của mình cho sự nghiệp thiêng liêng vì mục đích giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước trong hơn một thế kỷ qua.

Đây là một cuộc đấu tranh không cân sức giữa ta và địch, giữa một bên là toàn bộ sức mạnh đàn áp khốc liệt của chế độ chiếm đóng, cai trị của nước ngoài đã biến quần đảo Côn Lôn tươi đẹp thành một “Địa ngục trần gian”, mong nghiền nát mọi sự chống đối, với một bên là ý chí sắt thép của những người tù tay không tất sắt, bị gông cùm, tra tấn, đoạ đày, chiến đấu chỉ bằng một thứ vũ khí duy nhất: “Lòng yêu nước và tinh thần bất khuất của truyền thống Việt Nam” được trao lại từ lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc. Cuộc đấu tranh không cân sức ấy kéo dài hơn một thế kỷ và cuối cùng những người Việt Nam yêu nước ấy đã chiến thắng.

Nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945 –   19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2025), Thư viện Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ xin giới thiệu đến bạn đọc tập sách: Những người con Sài Gòn trong “Địa ngục trần gian” Côn Đảo để giúp chúng ta hiểu thêm về Côn Đảo – bản hùng ca bi tráng của Cách mạng Việt Nam, là hòn đá thử vàng của khí tiết và nhân cách Việt Nam, là minh chứng hùng hồn của ý chí Việt Nam. Côn Đảo mãi mãi cất cao tiếng nói dõng dạc với nhân loại và lịch sử rằng: “Ý chí và lòng yêu nước Việt Nam là không gì có thể khuất phục”. Tiếng hát kiêu hãnh của Anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu trên địa ngục Côn Đảo trước họng súng nơi pháp trường, mãi mãi là biểu tượng lạc quan của niềm tin tất thắng ấy.

Côn Đảo không chỉ là biểu tượng của quá khứ anh hùng, là niềm tự hào của dân tộc, mà còn là nơi gieo mầm cho lòng tin ở tương lai: “Thiên Đường Côn Đảo”.

Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 09 năm 2025

Phạm Tuấn Trường

Phòng Truyền thông – Giáo dục và Quan hệ quốc tế

Tour 360° Tour 360° 360 Tour